Thứ Tư, 9 tháng 3, 2011

LÊN TIẾNG BẢO VỆ GIA ĐÌNH

Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ ra thông cáo phản đối quyết định của Tổng thống Obama liên quan đến Luật Bảo vệ hôn nhân
Ngày 23-02, Tổng thống Hoa Kỳ Obama chỉ thị cho Bộ Tư pháp Hoa Kỳ ngưng thi hành việc bảo hộ Điều 3 của Bộ luật Bảo vệ hôn nhân (Defense of Marriage Act, quen gọi là Luật DOMA, do Tổng thống Bill Clinton ban hành năm 1996).

Nội dung của Điều 3 Luật DOMA như sau:
“Điều 3. Định nghĩa hôn nhân
Theo sự xác định ý nghĩa của bất kỳ đạo luật nào được Quốc hội thông qua, hoặc bất kỳ luật, quy tắc hiện hành nào, hoặc sự giải thích của các phòng hành chính và các cơ quan của Hoa Kỳ, từ “HÔN NHÂN” chỉ có ý nghĩa là sự phối hợp hợp pháp giữa một người đàn ông và một người đàn bà thành chồng và vợ, và từ “KẾT HÔN” chỉ có liên quan đến một người khác phái, là người chồng hoặc người vợ mà thôi”.
Như vậy Luật DOMA chỉ công nhận hôn nhân hợp pháp giữa một người nam và một người nữ.
Nay Tổng thống Obama quyết định không bảo hộ đặc điểm này nữa.
Bộ trưởng Tư pháp Eric H. Holder Jr giải thích quyết định của Tổng thống, cho rằng Điều 3 của DOMA thể hiện sự phân biệt đối xử với những người đồng tính và như vậy là vi hiến.
Lập tức Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đã phản ứng về quyết định nói trên.
Trong Thông cáo đề ngày 23-02, Hội đồng Giám mục, qua vị Tổng Cố vấn Pháp luật là luật sư Anthony R. Picarello Jr, đã mạnh mẽ phê phán quyết định của Tổng thống Obama.
Sau đây là toàn văn bản Thông cáo của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ:
THÔNG CÁO BÁO CHÍ
Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ ra Thông cáo sau đây từ Văn phòng Tổng Cố vấn Pháp luật của mình:
“Từ hàng ngàn năm và qua các nền văn hóa, hôn nhân vẫn được hiểu là sự phối hợp giữa một người nam và một người nữ. Hôm nay, Tổng thống đã chỉ đạo cho Bộ Tư pháp ngưng việc bảo hộ Luật Bảo vệ Hôn nhân, một đạo luật của Liên bang nhắc lại định nghĩa trên về hôn nhân, vốn đã được Quốc hội có đa số thuộc Đảng Cộng hòa thông qua và do một vị Tổng thống thuộc Đảng Dân chủ ký ban hành cách nay đúng 15 năm. Quyết định ngày hôm nay của Tổng thống chủ yếu dựa trên việc coi Đạo luật là một hình thức phân biệt đối xử đối với khuynh hướng tính dục chưa được luật cho phép.
Quyết định này thể hiện sự thoái thác trách nhiệm của Hành pháp có bổn phận thực thi nghĩa vụ đối với Hiến pháp, nhằm bảo đảm cho các đạo luật của Hoa Kỳ được thực hiện một cách trung thành. Đây là một sự sỉ nhục nghiêm trọng đối với hàng triệu người Mỹ, gồm cả những người không chấp nhận sự phân biệt đối xử bất công cũng như những người khẳng định giá trị độc đáo và vô giá của hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. Bênh vực hình thái hôn nhân hiện nay không phải là cố chấp mà rất hợp lẽ phải, thể hiện ý kiến chung coi đây là định chế căn bản của xã hội dân sự. Bất kỳ ý kiến nào do chính phủ đưa ra như kiểu nhận xét cho là có “phân biệt đối xử” thì chính là một sự đe dọa nghiêm trọng đối với quyền tự do tôn giáo của những người ủng hộ hôn nhân trên khắp thế giới.
Ngày 23 tháng Hai 2011
Anthony R. Picarello, Jr.
Tổng Cố vấn Pháp luật của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ      

12 ĐIỀU MÀ NGƯỜI CÔNG GIÁO PHẢI TRẢ LỜI ĐƯỢC







Kính gửi đến quý độc giả bài sau đây để thêm chất liệu suy nghĩ về đời sống đức tin chúng ta.
Tự do ngôn luận là một điều cao quý. Tiếc rằng chúng ta phải trả một giá rất đắt cho nó: Khi dân chúng được quyền tự do muốn nói gì thì nói, họ đôi khi dùng sự tự do đó để nói những điều ngớ ngẩn. Và đó là 12 điều mà chúng tôi sẽ bàn ở đây.
Có một ít điều được nhắc đi nhắc lại, có những điều khác thì họa hiếm mới được nhắc đến, trong khi những người đề xướng những sai lầm này tự do quảng bá chúng, chúng ta là người Công Giáo có nhiệm vụ phải trả lời.
1. "Không có gì là chân lý tuyệt đối cả. Ðiều đúng cho bạn chưa chắc đã đúng cho tôi."
Người ta dùng lý luận này rất nhiều khi họ không đồng ý với một câu nói và không có cách nào khác để chống đỡ tư tưởng của mình. Vậy, nếu không có gì là đúng cho tất cả mọi người, thì họ muốn tin gì thì tin, và không thể nói gì để làm họ đổi ý cả.
Nhưng hãy nhìn lại câu nói "Không có gì là chân lý tuyệt đối cả" một lần nữa. Có phải chính câu này đã khẳng định nó là điều tuyệt đối không? Nói cách khác, nó áp dụng ít qui luật hay tiêu chuẩn cho mọi người -- chính là điều mà những người theo tương đối nói là không thể được. Họ đã hóa giải lập luận của họ bằng cách đưa ra lập luận của họ.
Một vấn đề khác với câu này là không có một người theo thuyết tương đối nào lại thật sự tin điều đó. Nếu có ai nói với bạn, "Không có chân lý tuyệt đối nào cả," và bạn thụi vào bụng người đó, người đó có lẽ sẽ nổi nóng. Nhưng theo niềm tin của anh ta, anh ta phải nhận rằng đấm vào bụng ai có thể sai đối với anh, nhưng có thể đúng đối với bạn.
Khi đó họ sẽ trở lại với một bổ túc cho câu nói nguyên thủy là: "Bao lâu bạn không làm đau người khác, bạn tự do muốn làm gì và tin gì tùy ý." Nhưng đây chỉ là một sự phân biệt tùy ý (cũng như là câu nói tuyệt đối khác). Ai nói là tôi không được làm đau người khác? Cái gì là đau? Luật này từ đâu mà đến?
Nếu câu này được đưa ra dựa theo quyền của cá nhân, thì không có nghĩa gì đối với người khác. "Ðừng làm hại" chính nó là một thỉnh cầu đối với một cái gì cao trọng hơn - một loại phẩm giá chung của con người. Nhưng câu hỏi lại là phẩm giá từ đâu đến.
Như bạn có thể thấy, càng đi sâu vào những câu hỏi này, thì bạn càng hiểu biết rằng quan niệm về lẽ phải và chân lý không phải tùy ý, nhưng dựa vào một vài chân lý cao quý và phổ quát ngoại tại -- một chân lý được viết trong chính bản tính của chúng ta. Chúng ta có thể không biết nó trọn vẹn , nhưng không thể chối rằng không có chân lý đó.
2. Kitô giáo không hơn gì các tín ngưỡng khác. Tất cả mọi tôn giáo đều dẫn đến Thiên Chúa."
Nếu bạn không nghe đến câu này vài chục lần, bạn không rút ra được bao nhiêu. Ðáng buồn là những người nói lên điều này thường lại là Kitô hữu (ít ra trên danh nghĩa).
Những trở ngại với quan điểm này thật không phức tạp gì cả. Kitô giáo đưa ra một chuỗi những lời xác nhận về Thiên Chúa và con người: Rằng chính Chúa Giêsu Nadareth là Thiên Chúa, và Người đã chết và sống lại -- tất cả để chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi. Mọi tôn giáo khác trên thế giới phủ nhận tất cả những điều này. Cho nên, nếu Kitô giáo là đúng, thì đạo này nói cho thế gian biết một chân lý sống còn -- một chân lý mà tất cả các tôn giáo khác phủ nhận.
Chỉ điều này thôi đã làm cho Kitô giáo thành duy nhất.
Nhưng nó không ngừng ở đó. Hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng Thánh Gioan.
"Thầy là đường, sự thật, và sự sống; không ai có thể đến với Chúa Cha, mà không qua Thầy."Trong Kitô giáo, chúng ta có trọn sự mạc khải của Thiên Chúa cho nhân loại. Ðúng là tất cả các tôn giáo chứa đựng một phần chân lý -- số lượng thay đổi tùy theo tôn giáo. Tuy nhiên, nếu chúng ta khao khát mong muốn theo và thờ phượng Thiên Chúa, chúng ta có nên làm theo cách Ngài chỉ dạy không?
Nếu Chúa Giêsu quả thực là Thiên Chúa, thì chỉ Kitô giáo chứa đựng hoàn toàn chân lý này.
3. "Cựu Ước và Tân Ước trái ngược nhau ở nhiều chỗ. Nếu một Thiên Chúa toàn năng linh hứng Thánh Kinh, thì Ngài đã không để cho có sai lỗi."
Ðây là một luận điệu thông thường, người ta có thể thấy khắp nơi trên Internet (nhất là những websites vô thần và tự do tư tưởng). Một bài trên website của Vô Thần ghi rằng "Ðiều lạ thường về Thánh Kinh không phải vì tác giả là Thiên Chúa; chính là những mâu thuẫn được bịa đặt vô nghĩa mà người ta có thể tin là được Thiên Chúa thượng trí viết ra."
Những câu như thế thường được kèm theo một danh sách những câu "mâu thuẫn" trong Thánh Kinh. Tuy nhiên, những điều cho là mâu thuẫn có ít sai lầm đơn giản. Thí dụ, người phê bình không đọc những sách khác nhau trong Thánh Kinh theo thể văn mà các sách đó được viết. Xét cho cùng, Thánh Kinh là một sưu tập nhiều loại văn tự... lịch sử, thần học, thơ phú, và khải huyền, v.v... Nếu chúng ta đọc các sách này cùng một cách cứng ngắc như chúng ta đọc báo ngày nay, thì chúng ta sẽ bị bối rối kinh khủng.
Và danh sách "các mâu thuẫn" trong Thánh Kinh minh xác điều này. Thí dụ lấy điều đầu tiên trong danh sách Vô Thần của Mỹ:
"Hãy nhớ ngày Sabát, và giữ nó cách thánh thiện." (Xuất Hành 20, 8)
So với "Người thì cho rằng ngày này trọng hơn ngày khác; người khác lại cho rằng ngày nào cũng như nhau. Vậy mỗi người phải xác tín trong thâm tâm mình." (Rm 14, 5)
Người vô thần la lên: Ðó! rõ ràng là một mâu thuẫn. Nhưng phê bình gia quên không nhắc đến điều mà mọi Kitô hữu đều biết: Khi Ðức Kitô thiết lập Giao Ước Mới, thì những đòi hỏi về nghi lễ của Giao Ước Cũ được làm trọn (và qua đi). Vì thế việc những luật lệ trong Cựu Ước về nghi lễ không còn được ứng dụng cho dân của Tân Ước là điều hoàn toàn hợp lý.
Nếu nhà phê bình hiểu giáo lý đơn giản này của Kitô giáo, thì anh đã không mắc phải một lỗi sơ đẳng như thế.
Ðiều kế tiếp trong danh sách của Vô Thần Mỹ cũng có khuyết điểm tương tự:
"...trái đất mãi mãi trường tồn." (Giảng Viên 1, 4)
So với:
"...các nguyên tố vật chất sẽ cháy tiêu tan, trái đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu huỷ." (2 Pr 3, 10)
Vậy Cựu Ước cho rằng trái đất sẽ tồn tại đến muôn đời, trong khi Tân Ước nói rằng nó rồi sẽ bị hủy diệt. Chúng ta dung hòa hai câu này thế nào? Thực ra rất dễ, lại theo sự hiểu biết về thể văn mà theo hai sách này được viết ra.
Thí dụ Sách Giảng Viên so sánh cái nhìn thế tục và tôn giáo - và hẩu hết sách này viết theo quan niệm thế tục. Ðó là lý do tại sao chúng ta thấy những dòng như, "Bánh được làm cho vui, và rượu làm cho cuộc đời thêm tươi, và tiền bạc giải quyết được tất cả" (Gv 10, 19).
Tuy nhiên, ở cuối sách, tác giả đưa ra một khúc quanh, không cần tất cả "sự khôn ngoan" ông tặng và bảo chúng ta "Kính sợ Thiên Chúa, và tuân giữ giới răn Ngài; vì đó là tất cả nhiệm vụ của con người.." (12, 13).
Nếu một độc giả ngưng đọc trước khi đến cuối, thì người ấy sẽ bối rối như phê bình gia Vô Thần Mỹ. Tuy nhiên, vì quan điểm đó nảy ra khái niệm về một thế giới trường tồn bị gạt bỏ ở hàng cuối cùng của sách, hiển nhiên là không có mâu thuẫn với điều được mạc khải sau đó ở trong Tân Ước. (Và đây chỉ là một cách để trả lời tố cáo về sự khác biệt này)
Những "mâu thuẫn" khác giữ Cựu và Tân Ước có thể được trả lời cách tương tự. Hầu như với điểm nào, nhà phê bình cũng bị lầm lẫn về mạch văn, không để ý đến thể văn, và không để dành chỗ nào cho việc cắt nghĩa cách hợp lý.
Không một Kitô hữu biết suy nghĩ nào phải bối rối về những danh sách này.
4. "Tôi không cần đến Nhà Thờ. Bao lâu tôi là một người tốt, chỉ có điều đó mới đáng kể."
Luận điệu này được dùng thường xuyên, và rất gian xảo. Khi một người nhận mình là "người tốt," người đó thật sự ám chỉ rằng họ "không phải là một người xấu." -- người xấu là người sát nhân, hiếp dâm, và trộm cắp. Phần đông người ta không cần cố gắng mấy để tránh các tội này, và đó là tư tưởng: Chùng ta muốn làm một số việc tối thiểu để được thông qua. Ðiều đó không giống Ðức Kitô lắm, phải không?
Nhưng bỏ qua trạng thái tâm lý đó, có một lý do quan trọng để người Công Giáo đền Nhà Thờ hơn là chỉ để thực hành việc đi thêm một dặm nữa. Thánh Lễ là viên đá góc của đời sống đức tin của chúng ta vì một điều nằm ở trọng tâm của nó: Bí Tích Thánh Thể. Ðó là nguồn mạch của tất cả đời sống cho người Công Giáo, là những người tin rằng bánh và rượu trở nên Mình và Máu thật của Ðức Kitô. Chứ không phải chỉ là biểu tượng của Thiên Chúa, nhưng là Thiên Chúa hiện diện cách thể lý với chúng ta bằng một phương thế mà chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm được bằng cầu nguyện.
Chúa Giêsu phán, "Thật, Thật, Ta bảo các người, trừ khi các người ăn thịt Con Người và uống máu Người, các người không có sự sống trong các người; ai ăn thịt và uống máu Ta có sự sống đời đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết" (Ga 6,53-54). Chúng ta tôn trọng lệnh của Chuá Giêsu và tin tường vào lời hứa của Người mỗi lần chúng ta đi dự Thánh Lễ.
Hơn nữa, bí tích Thánh Thể, cùng với tất cả các bí tích khác, chỉ dành cho những người ờ trong Hội Thánh. Là phần tử của Hội Thánh, nhiệm thể hữu hình của Ðức Kitô trên thế gian, đời sống chúng ta liên hệ mật thiết với đời sống của người khác trong Hội Thánh. Liên hệ cá nhân của chúng ta đối với Thiên Chúa thật quan trọng, nhưng chúng ta cũng có nhiệm vụ sống như những phần tử trung thành của nhiệm thể Ðức Kitô. Là "người tốt" mà thôi chưa đủ.
5. "Bạn không cần phải xưng tội với một linh mục. Bạn có thể đến thẳng cùng Thiên Chúa."
Như một cựu mục sư Baptist, tôi có thể hiểu việc chống xưng tội của người Tin Lành (họ hiểu về chức linh mục một cách khác). Nhưng một người Công Giáo mà nói một điều như thế... thì thật là thất vọng. Tôi nghi rằng bản tính loài người là thế, người ta thường không thích nói cho người khác biết tội mình, nên đưa ra lý do để biện minh tại sao không làm thế...
Bí Tích Giải Tội đã có với chúng ta từ đầu, từ chính Lời của Ðức Kitô:
"Chúa Giêsu lại bảo các ông, 'Bình an cho các con! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con.' Nói rồi, Người thổi hơi vào các ông và bảo các ông, 'Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Nếu các con tha tội cho ai, thì người ấy được tha; nếu các con cầm buộc ai, thì người ấy bị cầm buộc.'” (Ga 20:21-23)
Nên ghi nhận rằng Chúa Giêsu ban cho các tông đồ quyền tha tội.. Tất nhiên, họ không biết phải tha tội nào nếu họ không được nói cho biết là tội nào chúng ta phạm.
Việc xưng tội cũng được chứng minh trong thư thánh Giacôbê:
Có ai trong anh em đau ốm? Hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh, và hãy để họ cầu nguyện trên người ấy, xức dầu cho người ấy nhân danh Chúa; Và lời cầu nguyện do đức tin sẽ cứu người bệnh; và Chúa sẽ nâng người ấy dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha. Anh em hãy xưng tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để được chữa lành. Vì lời cầu xin tha thiết của người công chính có hiệu lực rất lớn lao. (Gcb 5,14-16)
Ðiều đáng quan tâm là không có chỗ nào Thánh Giacôbê (hay Chúa Giêsu) bảo chúng ta là chỉ xưng tội với Thiên Chúa, nhưng các Ngài có vẻ nghĩ là ơn tha tội đến bằng cách xưng tội công khai.
Và lý do thật dễ hiểu. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta làm tổn thương không những mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa, mà còn với Nhiệm Thể Người, là Hội Thánh (vì tất cả mọi người Công Giáo nối kết với nhau như con cùng một Cha). Cho nên khi chúng ta xin lỗi, chúng ta phải xin lỗi tất cả mọi nhóm liên hệ - Thiên Chúa và Hội Thánh.
Hãy nghĩ về xưng tội cách này. Thử tưởng tượng rằng bạn vào một tiệm và ăn cắp vài món hàng. Sau đó, bạn áy náy và hối hận về hành động tội lỗi này. Giờ đây, bạn có thể cầu xin Thiên Chúa tha cho bạn vì đã phạm giới răn của Ngài. Nhưng còn một phần tử khác liên hệ; bạn phải trả lại món hàng và đền bù cho hành động của bạn.
Ðối với Hội Thánh cũng thế. Trong toà giải tội, linh mục đại diện cho Thiên Chúa và Hội Thánh, vì chúng ta có tội với cả hai. Và khi ngài công bố lời tha tội, thì sự tha thứ chúng ta lãnh nhận được trọn vẹn.
6. "Nếu Hội Thánh thật sự theo Chúa Giêsu, thì đã bán các nghệ thuật, tài sản, và các công trình kiến trúc lãng phí, mà cho người nghèo."
Khi một người nghĩ đến Thành Vatican, họ liên tưởng ngay đến một vương quốc giàu sang, với nơi ở như cung điện cho Ðức Giáo Hoàng và các hòm đầy vàng cất ở các xó nhà, chưa kể đến các sưu tầm nghệ thuật và đồ cổ vô giá. Nhìn đến Vatican cách này thì dễ thấy tại sao một số người trở thành bực tức vì những điều họ nghĩ là sự khoe khoang tài sản cách phô trương và phí phạm.
Nhưng sự thật thì hoàn toàn khác. Các dinh thự chính gọi là "Ðiện Vatican" không phải được xây làm chỗ ở xa hoa của Ðức Giáo Hoàng. Thực ra, khu vực gia cư tương đối nhỏ. Phần lớn điện Vatican được dùng vào việc nghệ thuật, khoa học, điều hành công việc Hội Thánh, và điều hành chung của điện. Có một số đông nhân viên của Hội Thánh và hành chánh sống trong điện Vatican cùng ÐTC, làm cho nó thành trụ sở chính của Hội Thánh.
Còn về những sưu tầm nghệ thuật, thực sự là sưu tập quý nhất trên thế giới, Vatican coi đó như một "kho tàng không thể thay thế được," nhưng không phải về diện tài chánh. ÐTC không làm chủ những tác phẩm nghệ thuật này, và nếu ngài muốn, ngài cũng không được phép bán chúng; chúng chỉ được đặt dưới sự săn sóc của Toà Thánh. Các tác phẩm này không đem nguồn lợi đến cho Hội Thánh, mà ngược lại, Tòa Thánh phải đầu tư một số tài nguyên không nhỏ để bảo tổn các sưu tầm này.
Sự thật của vấn đề này là Tòa Thánh có một ngân sách khá eo hẹp Nếu thế thì tại sao lại giữ những nghệ phẩm này? Vì tin vào một trong các sứ mệnh của Hội Thánh là một động lực truyền bá văn minh trong thế giới. Cũng như các thầy dòng thời trung cổ cẩn thận chép lại các sách cổ để cung cấp cho các thế hệ tương lai -- nếu không thì những văn bản này không còn nữa -- Hội Thánh tiếp tục bảo trì nghệ thuật để chúng không bị mai một với thời gian. Trong nền văn hóa sự chết ngày nay khi mà từ "văn minh" chỉ được dùng cách lỏng lẻo, sứ vụ truyền bá văn minh của Hội Thánh ngày nay còn quan trọng hơn bao giờ hết.
7. "Chống đối thực sự là điều tích cực, vì tất cả chúng ta phải có đầu óc cởi mở đối với những tư tưởng mới."
Ngày nay có lẽ bạn đã nghe lập luận này nhiều rồi, nhất là trong vụ gương mù về lạm dụng tính dục trong Hội Thánh. Ai cũng muốn tìm giải pháp cho vấn đề, trong đó có người đưa ra những tư tưởng ngoài đức tin Công Giáo (như cho phụ nữ, hay mở cửa cho đống tính luyến ái làm linh mục, v.v...). Nhiều người đổ tội cho Hội Thánh vì quá cứng rắn về đức tin và không muốn thử những điều mới.
Sự thật là nhiều tư tưởng về cải cách được đề ra khắp nơi ngày nay không có gì là mới mẻ cả. Chúng đã được đề ra từ lâu, và Hội Thánh đã quan tâm đến chúng. Thực ra, Hội Thánh đã bỏ cả đời ra nghiên cứu cẩn thận các tư tưởng và quyết định rằng tư tưởng nào hợp với luật Thiên Chúa và tư tưởng nào không. Hội Thánh đã gạt ra hết lạc giáo này đến lạc giáo khác trong khi cẩn thận xây dựng giáo lý Ðức Tin. Chúng ta không ngạc nhiên gì khi thấy có cả ngàn giáo hội Kitô khác ngày nay -- tất cả các giáo hội đó đều một thời có "những tư tưởng mới" mà Hội Thánh cho là ngoài Kho Tàng Ðức Tin.
Hội Thánh có môt nhiệm vụ quan trọng là bảo vệ sự ven toàn của Ðức Tin. Hội Thánh không bao giờ loại bỏ ngay các tư tưởng như một số người chống đối kết án, nhưng đã có hai ngàn năm cầu nguyện và nghiên cứu đằng sau những gì phải tin và phải giữ gìn là chân thật.
Ðiều này không có nghĩa là chúng ta không bao giờ bất đồng ý kiến với nhau ở điểm gì. Luôn luôn có chỗ để thảo luận làm thế nào để đào sâu sự hiểu biết của chúng ta về chân lý -- thí dụ, làm sao để cải tiến các chủng viện hay các tương quan giữa giáo sĩ và giáo dân-- tất cả đều trong phạm vi của những nguyên tắc Ðức Tin.
8. Nếu giải thích đúng, Thánh Kinh không lên án đồng tính luyến ái. Nhưng đúng hơn là chống lối sống bừa bãi - dù là đồng tính hay giữa nam nữ. Vì vậy, chúng ta không có lý do để chống liên hệ tình yêu đồng tính."
Khi hành vi đồng tính luyến ái được chấp nhận rộng rãi hơn trong nền văn hóa của chúng ta, thì sẽ có nhiều áp lực hơn giữa các Kitô hữu để giải thích sự cấm đoán điều này cách tỏ tường trong Thánh Kinh. Hiện thời tiêu chuẩn của phe cấp tiến là cho rằng Thánh Kinh -- khi hiểu đúng -- không cấm những hành vi đồng tính.
Nhưng luận điệu này hoàn toàn trái ngược với những câu rõ ràng trong cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Các câu đầu tiên dĩ nhiên là câu chuyện thời danh về Sođôm và Gômôra. Nếu bạn nhớ lại chuyện hai thiên sứ được Thiên Chúa sai đến thăm ông Lót:
"Nhưng khi các ngài đi nằm thì dân trong thành, tức là người Sôđôm, bao vây nhà, từ trẻ đến già, tất cả mọi người không trừ ai. Chúng gọi ông Lót và bảo: "Những người vào nhà ông đêm nay đâu rồi? Hãy đưa họ ra cho chúng tôi chơi." Ông Lót ra trước cửa gặp chúng, đóng cửa lại sau lưng," rồi nói:"Thưa anh em, tôi xin anh em đừng làm bậy. Đây tôi có hai đứa con gái chưa ăn ở với đàn ông, tôi sẽ đưa chúng ra cho anh em; anh em muốn làm gì chúng thì làm, nhưng còn hai người này, xin anh em đừng làm gì họ, vì họ đã vào trọ dưới mái nhà tôi." Chúng đáp:"Xê ra! Tên này là một kiều dân đến đây trú ngụ mà lại đòi xét xử à! Chúng tao sẽ làm dữ với mày hơn là với những tên kia!" Họ xô mạnh ông Lót và xông vào để phá cửa. Nhưng hai người khách đưa tay kéo ông Lót vào nhà với mình, rồi đóng cửa lại.(STK 19:4-10)
Thông điệp của đoạn này thật rõ ràng. Các người Sôđôm là người đồng tính luyến ái muốn liên hệ tính dục với những người thanh niên ở trong nhà. Ông Lót cho họ con gái ông, nhưng họ không thích. Ít giờ sau, Sôđôm bị Thiên Chúa thiêu hủy để đền tội dân chúng phạm -- đó là các hành vi đồng tính luyến ái. Sự thật này được Tân Ước xác nhận:
Như Sôđôm, Gômôra và các thành lân cận cũng có cùng một thái độ như họ, buông tuồng trong việc tà dâm, và chạy theo những chuyện xác thịt trái tự nhiên, thì đã được dùng để làm gương, bằng cách chịu phạt trong lửa đời đời. (Giuđa 7)
Nhưng không phải chỉ có những đoạn này trong Thánh Kinh lên án hành vi đồng tính. Cựu Ước còn có một câu khác lên án cách rõ ràng: "Ngươi không được nằm với đàn ông như nằm với đàn bà: đó là điều ghê tởm." (Lv 18, 22).
Và những câu này không chỉ được giữ trong Cựu Ước mà thôi.
"Vì lý do đó mà Thiên Chúa đã để mặc họ theo dục tình đồi bại. Phụ nữ của họ đã đổi những liên hệ tự nhiên lấy những liên hệ trái tự nhiên. Ðàn ông cũng thế, bỏ liên hệ tự nhiên với phụ nữ để nôn nao thèm muốn lẫn nhau. Ðàn ông làm việc tồi bại với đàn ông, và như thế chuốc vào thân hình phạt xứng với sự suy đồi của họ." (Rm 1,26-27)
Thật khó vô cùng cho những Kitô hữu cấp tiến giải thích câu này cách ngược lại. Ở đây không chỉ nói đến việc dâm loàn hay hiếp dâm của người đống tính; nhưng Thánh Phaolô chống lại bất cứ liên quan đồng tính nào (mà ngài diễn tả là "trái tự nhiên," "tồi bại" và "đồi bại").
Các Kitô hữu cấp tiến bị trói tay. Sau cùng, một người làm thế nào mà dung hòa đồng tính luyến ái với Thánh Kinh? Xem ra giải pháp của họ là lấy đi quyền về luân lý của Thánh Kinh, và giải thích vòng vo để tránh thông điệp thật rõ ràng này.
9. "Người Công Giáo nên theo lương tâm trong mọi sự... dù là phá thai, ngừa thai, hay phong chức thánh cho phụ nữ."
Ðúng --Sách Giáo Lý nói rất thẳng, "Con người có quyền hành động theo lương tâm và sự tự do để tự mình quyết định về luân lý. "Không được cưỡng bách ai hành động trái với lương tâm của họ. Cũng không được ngăn cản họ hành động theo lương tâm, đặc biệt là trong những vấn đề tôn giáo " (1782). Giáo huấn này là trọng tâm của điều gọi là có ý chí tự do.
Nhưng điều đó không có nghĩa là lương tâm chúng ta không phải chịu trách nhiệm hay có thể gạt luật của Thiên Chúa ra ngoài. Ðây là điều mà Giáo Lý gọi là có "một lương tâm được huấn luyện chu đáo."
Sách Giáo Lý trao cho lương tâm con người một trách nhiệm nặng nề:
"Lương tâm luân lý, hiện diện trong lòng người, ra lệnh vào lúc thích hợp cho con người làm lành lánh dữ.... Lương tâm chứng nhận quyền bính của chân lý bằng cách chiếu theo Sự Thiện Hảo tối thượng (Thiên Chúa), là Ðấng mà con người được thu hút và đón nhận mệnh lệnh. Khi nghe theo tiếng lương tâm, người khôn ngoan có thể nghe tiếng Thiên Chúa đang nói" (1777).
Nói cách khác, lương tâm chúng ta không phải chỉ là "cái gì chúng ta cảm thấy đúng"; mà là những gì chúng ta phán quyết là đúng dựa theo những điều chúng ta biết là giáo huấn của Thiên Chúa và Hội Thánh. Và để phán đoán, chúng ta có nhiệm vụ học hỏi và cầu nguyện rất cẩn thận về những giáo huấn này. Sách Giáo Lý có trọn một phần dành riêng cho việc huấn luyện lương tâm cách kỹ lưỡng -- và nó quan trọng thế nào trong việc quyếtb định đúng.
Và sau cùng, dù đúng hay sai, chúng ta vẫn chịu trách nhiệm về việc chúng ta làm: "Lương tâm giúp chúng ta gánh nhận trách nhiệm đối với việc chúng ta làm" (1781). Khi được đào luyện đúng, nó giúp chúng ta thấy khi nào chúng ta làm sai và cần được tha thứ tội lỗi chúng ta.
Bằng cách cố gắng để có một lương tâm được đào luyện hoàn toàn, chúng ta thật sự cảm nghiệm được sự tự do lớn lao, vì chúng ta được lôi cuốn lại gần chân lý vô cùng của Thiên Chúa. Nó không phải là một gánh nặng hay là một cái gì ngăn cản chúng ta làm điều chúng ta thích; nhưng là một sự hướng dẫn giúp chúng ta làm những gì là đúng. "Việc giáo dục lương tâm đảm bảo sự tự do và đem lại bình an trong tâm hồn" (1784).
10. Phương Pháp Tự Nhiên chỉ là một cách ngừa thai của Công Giáo."
Phương Pháp Tự Nhiên (PPTN) có kẻ thù mọi mặt. Có người tin rằng đó là một cách ngừa thai khác thiếu thực tế (mà cách nào họ cũng không cho là có tội) trong khi người khác lại cho rằng nó cũng xấu chẳng khác gì ngừa thai.. PPTN phải đi giữa ranh giới của hai cực đoan.
Trước nhất, vấn đề chính của việc ngừa thai là nó ngược lại với bản chất của cơ thể chúng ta -- và cách chung sự tự nhiên. Mục đích của nó là tách rời hành động (tính dục) ra khỏi hậu quả (có thai), chính là hạ sự thánh thiện của tính dục xuống thành sự theo đuổi lạc thú thuần túy.
PPTN, khi dùng vì lý do chính đáng, thì còn hơn là một dụng cụ được dùng để xem đôi hôn nhân có phương tiện (dù là tài chánh, thể lý, hay tâm lý) để đón nhận một đứa trẻ vào cuộc đời của họ. Nó liên quan đến việc hiểu biết chính thân thể của mình, cẩn thận lưu tâm đến hoàn cảnh của bạn trong cuộc đời, thảo luận vấn đề với bạn đời, và trên hết là cầu nguyện. Thay vì thoát ly thực trạng đầy đủ của tính dục, bạn tham gia vào đó với một sự hiểu biết hơn về mọi khía cạnh liên quan.
Những người ủng hộ việc hạn chế sinh sản chỉ vào những người không thể cố gắng có thêm con, hay sức khỏe có thể bị nguy hiểm vì mang thai thêm. Nhưng đó là những lý do hoàn toàn chính đáng để dùng PPTN -- những hoàn cảnh mà phương pháp này hoàn toàn hiệu quả -- và Hội Thánh cho phép dùng nó.
Những người khác nghĩ rằng dùng bất cứ phương thức nào để giới hạn số con trong gia đình là đóng vai Thiên Chúa, hơn là để Ngài cung cấp cho chúng ta như Ngài thấy cần. Ðúng là chúng ta phải tin tưởng vào Thiên Chúa và luôn chấp nhận sự sống Ngài ban cho chúng ta, nhưng chúng ta không phải hoàn toàn buông xuôi về phương diện này.
Thí dụ, thay vì phung phí tiền bạc lung tung và nói rằng "Thiên Chúa sẽ cung cấp," các gia đình cẩn thận dự trù ngân sách tài chánh và cố gắng không tiêu xài quá khả năng của mình. PPTN cũng giống như ngân sách đó, giúp chúng ta suy nghĩ đến hoàn cảnh của chúng ta trong cuộc đời và hành động theo đó trong tinh thần cầu nguyện. Biết mình và dùng trí khôn cùng ý chí tự do, thay vì thụ động mong chờ Thiên Chúa lo liệu mọi sự, là một phần của bản tính con người. Chúng ta được mời gọi để trở nên những người quản lý tốt các hồng ân Chúa ban; chúng ta phải cẩn thận đừng coi thường các ân huệ này.
11. "Người ta có thể vừa ủng hộ phá thai (tự do chọn lựa) vừa đồng thời là Công Giáo."
Trong khi đây là một huyền thoại thông thường nhất mà người Công Giáo hiểu về đức tin của họ, nó cũng là một điều dễ đánh tan nhất. Sách Giáo lý không chẻ một chữ nào khi nói về phá thai: nó được liệt kê cùng với tội giết người trong các tội phạm đến điều răn thứ năm, "Chớ giết người."
Những đoạn sau nói rõ: "Sự sống con người phải được tôn trọng và bảo vệ cách tuyệt đối từ giây phút thụ thai" (2270). "Ngay từ thề kỷ thứ nhất Hội Thánh đã xác nhận sự dữ về luân lý của mọi cuộc phá thai cố tình. Giáo huấn này không thay đổi và sẽ không bao giờ thay đổi" (2271). "Hợp tác chính thức vào việc phá thai là tội trọng. Hội Thánh gán hình phạt vạ tuyệt thông cho các tội phạm đến sự sống con người" (2272).
Có thể nói rõ ràng hơn thế nữa. Tuy nhiên, có những người sẽ lý luận rằng là người "tự do chọn lựa" không có nghĩa là ủng hộ phá thai; nhiều người cho rằng phá thai là sai, nhưng không muốn áp đặt tư tưởng của mình trên người khác.
Ðó là lại là luận "điều đúng cho bạn có thể không đúng cho tôi" mà thôi. Hội Thánh cũng có câu trả lời cho lập luận này: "Những quyền bất khả xâm phạm của con người phải được xã hội dân sự và chính quyền nhìn nhận và tôn trọng. Những quyền này không lệ thuộc vào các cá nhân, hay cha mẹ, cũng không phải là một nhân nhượng của xã hội và của quốc gia, nhưng thuộc về bản tính con người và gắn liền với con người do chính hành động sáng tạo của Thiên Chúa mà từ đó sinh ra con người" (2273)...
Tính linh thiêng của sự sống là một chân lý phổ quát không thể coi thường được. Khuyên ai phá thai, hay ngay cà bỏ phiếu cho các chính trị gia cổ võ việc phá thai, là một tội trọng, vì nó đưa người khác đến tội trọng - là điều mà Sách Giáo Lý gọi là làm gương mù (2284).
Hội Thánh mạnh dạn và dứt khoát chống phá thai, và chúng ta là người Công Giáo cũng phải khẳng định lập trường của chúng ta như thế.
12. "Việc người ta nhớ lại cuộc sống ở kiếp trước chứng tỏ rằng luân hồi là đúng... và quan điểm của Kitô Giáo về Thiên Ðàng, Hỏa Ngục là sai."
Khi xã hội trở nên mê hoặc nhiều hơn với những hiện tượng siêu hình, chúng ta có thể chắc sẽ thấy thêm những vụ nhận rằng "nhớ lại kiếp trước". Quả thật, bây giờ có những tổ chức giúp bạn trở lại các kiếp trước của bạn bằng cách dùng thôi miên.
Trong khi điều này có thể thuyết phục một số người, chắc chắn rằng không thuyết phục được những người quen thuộc với thôi miên. Hầu như ngay từ đầu, các nhà khảo cứu đã ghi nhận rằng các bệnh nhân ngủ mê trong lúc bị thôi miên thường thêu dệt những câu chuyện ký ức phức tạp, mà sau đó được tỏ ra là không có thật. Những nhà chữa trị danh tiếng đã biết rõ hiện tượng này, và cẩn thận cân nhắc những gì bệnh nhân nói khi bị thôi miên.
Ðáng buồn là đây không phải là trường hợp đối với những người muốn tìm "bằng chứng" của luân hồi. Có lẽ thí dụ điển hình nhất của sự bất cẩn này là trường hợp nổi tiếng của Bridey Murphy. Nếu bạn không biết chuyện đó, thì đây là một tóm lược: Năm 1952, một bà nội trợ ở Colorado tên là Virginia Tighe được thôi miên. Bà bắt đầu nói giọng Ái Nhĩ Lan và cho rằng có thời bà là một phụ nữ tên là Bridey Murphy sống ở Cork, Ái Nhĩ Lan.
Câu chuyện của bà ta được viết thành cuốn sách bán chạy nhất, "Cuộc tìm kiếm Bridey Murphy," và được nhiều chú ý. Các ký giả lục soát khắp Ái Nhĩ Lan để tìm người nào, hay chi tiết nào có thể xác nhận việc trở lại kiếp trước này. Trong khi không tìm được gì, trường hợp của Bridey Murphy tiếp tục được dùng để chống đỡ các lý luận về luân hồi.
Ðây là một điều bẽ bàng, vì Virginia Tighe bị phanh phui là giả trá vài chục năm qua. Thử nghĩ xem, các bạn bè của Virginia nhớ lại trí tưởng tượng linh động của bà, và khả năng bày đặt những câu chuyện phức tạp (thường xoay quanh tài nhái giọng mà bà ta đã đạt đến mức hoàn bị). Không những chỉ có thế, mà bà còn rất thích Ái Nhĩ Lan, một phần vì tình bạn với một phụ nữ người Ái mà tên họ là - bạn đoán xem - Bridie.
Hơn nữa, Virgiania thêm vào câu chuyện trong lúc bị thôi miên nhiều điều khác nhau từ chính đời sống của bà (mà không cho nhà thôi miên biết sự song đôi này). Thí dụ, Bridey diễn tả về "Bác Plazz," mà các nhà nghiên cứu cho là cách nói sai của người Gaelic "Bác Blaise." Tuy thế họ bị cụt hứng khi khám phá ra rằng Virginia có một người bạn khi còn nhỏ mà bà gọi là "Bác Plazz."
Các nhà nghiên cứu ngạc nhiên khi Virginia nhảy điệu jig của Ái Nhĩ Lan trong một lần bị thôi miên. Làm sao mà một bà nội trợ ở Colorado lại học được cách nhảy jig? Ðiều huyền bí này được giải quyết khi người ta biết rằng Virginia đã học điệu nhảy này khi còn bé.
Như trường hợp Bridey Murphy cho thấy, những việc nhận là trở lại tiền kiếp luôn luôn gợi cảm hơn thực tế. Cho đến ngày nay, chưa có một trường hợp nào chứng minh được là có một người nhớ lại được kiếp trước. Chắc chắn là có nhiều câu chuyện đã được kể lại dưới sự kiểm soát của một nhà thôi miên, tuy nhiên, bằng chứng của luân hồi (giông như Nàng Tiên Răng) vẫn tiếp tục tránh né chúng ta.
(GLV Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ)
Nguồn: 
kinhthanhvn.org        

GIÁO HỘI HIỆP THÔNG

Cả Giáo hội bước vào mùa chay thánh, ăn năn sám hối và canh tân đổi mới đời sống, để làm chứng cho Chúa Kito. Khởi đầu là nghi thức bỏ tro trên đầu, ai cũng sẽ phải trở về với tro bụi. Do đó, từ Giáo hoàng, Giám mục, Linh mục, Giáo dân đều tháp nhập vào nghi thức này để ý thức thân phận tro bụi của mình mai này cũng trở về tro bụi.

LỜI CHÚA LỄ TRO

Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh (Mc 6,6)

TÂM TÌNH NGÀY LỄ TRO

Bước vào mùa chay thánh, với nghi thức bỏ tro trên đầu để nhắc nhở con người khi sinh ra từ lòng đất Mẹ, nay cũng trở về với lòng đất Mẹ. Tro bụi sẽ trở về với tro bụi. Với ý nghĩa đó con người luôn nhớ mình là gì trong thế giới đầy hỗn loạn này. Một thế giới đang đánh mất những gì là Tạo Hóa ban cho con người. Tội lỗi đã xâm nhập vao thế gian cho nên con người đang bị thế lực của sự dữ thống trị. Tôi và bạn cần thống hối trong mùa chay này để trở về cùng Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Ngài luôn dang rộng vòng tay để đón ta và ôm ta vào lòng, để chở che và bảo vệ ta.
Lạy Chúa, xin tha thứ những gì chúng con đã xúc phạm đến Người và đến anh em. Xin giúp con mùa Chay Thánh này tìm được con đường mà ở đó Chúa mời gọi con.

Thứ Hai, 7 tháng 3, 2011

12h TRƯỚC NGÀY 8.3

Chúc mừng tất cả các phụ nữ trên thế giới này. Những người bà, mẹ, chị, em... luôn tràn đầy niềm tin yêu trong cuộc sống. Đặc biệt người Mẹ yêu dấu của tôi. Cầu mong mẹ luôn bình an và tràn đầy hành phúc.

TIN MỪNG SỰ SỐNG

Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường (Mc 12,10)
                                                                                 

Thứ Sáu, 4 tháng 3, 2011

TIN YÊU

Anh em hãy tin vào Thiên Chúa (Mc 11, 22) 


                                                                                                                                                                                         Lạy Chúa, khi con người đang loại Ngài ra khỏi cuộc sống thì chính lúc đó họ lại đang đi xuống vực thẳm của sự chết. Xin cho con người ngày nay biết hành động theo lương tâm, để cho Ngài hướng dẫn. Cho con luôn vững tin nơi Ngài là Cha của chúng con.

XIN TIN YÊU

Hãy vững tin vào tình yêu Thiên Chúa. Người luôn bên bạn dù bạn có bỏ Ngài

Thứ Năm, 3 tháng 3, 2011

CHÚNG TÔI, CÙNG VỚI CÁC LINH MỤC CỦA CHÚNG TÔI,SẴN SÀNG ĐI TÙ...


Các Giám Mục Philippines sẵn sàng đi tù để ngăn chặn luật phá thai
         Các Giám Mục Phi Luật Tân đã công bố một chiến dịch "bất tuân dân sự" chống lại một dự luật về ngừa thai và phá thai chính phủ sẽ thông qua nay mai trong tháng 2. Đức Cha Nereo Odchimar, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Philippines ( Ảnh bên trái ), thay mặt tất cả Giám Mục đoàn, đã đưa ra một lá thư mục vụ, kêu gọi người Công Giáo toàn quốc, Giáo Sĩ và Giáo Dân, tỏ thái độ kiên quyết phản đối và chiến đấu mạnh mẽ dự luật này, tuy nhiên các ngài vẫn khẳng định chiến dịch sẽ diễn ra hết sức ôn hòa bất bạo động, không có ý định tìm cách lật đổ chính phủ đương nhiệm.
Được biết, trong tháng 2, dự luật sẽ được đệ trình lên Hạ Nghị Viện để xin phê chuẩn chính thức. Người ta đã quan ngại sẽ gây đụng chạm mạnh đối với người Công Giáo gần như toàn tòng tại Philippines nên đã tránh không gọi đây là "Luật sức khỏe sinh sản", mà gọi là luật "về cha mẹ có trách nhiệm". Tuy nhiên, trong thực tế, luật này sẽ khuyến khích người dân có thể sử dụng các biện pháp ngừa thai như là phá thai, lại nữa luật sẽ được bảo trợ ngay tại các trường học, và vẫn tiếp tục cấm các bác sĩ có thể nại đến lương tâm khi từ chối phá thai.
Điều này đã bất chấp tất cả những nỗ lực từ phía Giáo Hội và cả từ phía tổng thống Benino Aquino là người mới đây đã công bố một một bản đánh giá các điểm gây tranh cãi gay gắt nhất của dự luật. Và như thế càng làm cho bầu khí phản kháng trở nên sôi sục.
Bên cạnh đó, Hiệp Hội Phò Sự Sống Quốc Tế Sự Sống Con Người ( HLI ) sẽ tổ chức một cuộc biểu tình trong những ngày tới để yêu cầu Tổng Thống chống lại áp lực của các tổ chức quốc tế đang tài trợ cho việc kiểm soát sinh sản như một phương cách để giảm nghèo. Theo Giám đốc Rene Bullecer của HLI, Tổng Thống đang bị sức ép của các cơ quan quốc tế như Cơ Quan Phát Triển Quốc Tế Hoa Kỳ ( USAID ) và Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc ( UNFPA ) khi họ đã tài trợ hơn 900 triệu USD cho chính phủ để buộc Tổng Thống phải lùi bước.
Và giọt nước tràn ly, hôm 3.2.2011 ( mùng 1 Tết bên Việt Nam mình ), Đức Cha Arturo Mandin Bastes ( Ảnh bên phải ), Giáo Phận Romblon, khu vực thành phố Sorgoson phía nam thủ đô Manila, vốn là một Tu Sĩ Dòng Ngôi Lời, nói rất mạnh cùng giới báo chí: "Chúng tôi, cùng với các Linh Mục của chúng tôi, sẵn sàng đi tù, để phản đối chống lại hành động vô đạo đức này".
Nghe chuyện xứ người mà nghĩ đến chuyện nước mình. Phá thai thì thời nào cũng có, nhưng phải nói là sang thời của chế độ xã hội chủ nghĩa sau 75 thì phá thai... được mùa nở rộ. Lúc đầu, khó khăn thiếu đói quá, người ta đành đoạn nạo hút thai và đặt vòng. Vậy mà không nhiều, không đến mức tràn lan báo động đỏ. Càng về sau này, đời sống kinh tế có vẻ khá lên, như thể chạy đua với tình trạng tham nhũng hoành hành bên phía chính quyền, các tệ nạn trong các tầng lớp xã hội cũng tăng vọt khủng khiếp, trong đó có lẽ AIDS và phá thai đạt mức vô dịch.
Cứ xem Nhà Nước vẽ panô khổng lồ treo đầy ngoài đường, ghi là: cứ mỗi 15 phút, Việt Nam có thêm một nạn nhân AIDS. Còn chuyện phá thai thì dựa vào con số thống kê chính thức và không chính thức, có thể làm bài tính suy ra cứ khoảng 6 giây trôi qua, lại có một thai nhi bị giết chết đâu đó trong các bệnh viện phụ sản hoặc đa khoa, các phòng khám công khai và các điểm phá thai chui lủi, thậm chí ở Hà Nội, đường Giải Phóng thênh thang tấp nập sầm uất đã được mệnh danh là “phố phá thai”.
Hình như bên phía Công Giáo mình, Huế là nơi tiên phong từ năm 1992 trong việc Bảo Vệ Sự Sống với các mái ấm nho nhỏ của cha Nguyễn Hữu Giải cưu mang các bà mẹ không muốn giết con và nhất là với ba quả đồi ở Giáo Xứ Ngọc Hồ đến nay đã lô nhô trắng xóa những nấm mồ thai nhi. Rồi sau đó có lẽ là Pleiku với Nghĩa Trang Đồng Nhi của cha Nguyễn Vân Đông. Ở Sàigòn sang thập niên 2000, “sơ Hào” Dòng Đức Bà Truyền Giáo đã có một Mái Ấm tiếp nhận các trường hợp lỡ lầm.
Rồi DCCT nhập cuộc cách đây gần mười năm, không chỉ có các Mái Ấm chăm sóc, không chỉ lo quy tập và hỏa táng hàng vạn xác thai nhi để làm nên một Lăng Anh Hài, mà việc giảng dạy và truyền thông BVSS còn được đẩy mạnh ở mọi miền, lan tỏa vào cả các nhà máy, các khu nhà trọ của công nhân và sinh viên Xa Quê. Bây giờ thì các Dòng Tu nam nữ khắp nơi, khắp các Giáo Phận trong Nam ngoài Bắc đã dấn thân rất nhiều, rất mạnh bên cạnh các cha xứ, các hội đoàn Công Giáo.
Tất cả những diễn tiến phát triển của phong trào BVSS ở Việt Nam trong khoảng 20 năm qua có thể được tóm lược như thế, thiết nghĩ, các đấng các bậc ở các Giáo Phận biết hết, biết rõ nữa là khác, nhưng không hiểu sao, không thấy lên tiếng. Mỗi khi Hội Đồng Giám Mục họp, anh chị em làm BVSS lại ngong ngóng đợi chờ một lời kêu gọi, một lời định hướng chỉ đường cho các tầng lớp Giáo Sĩ và Giáo Dân về tinh thần và hành động để BVSS. Thế nhưng, mọi sự cứ qua đi trong tiếc nuối và buồn bã, may mà ai nấy đều bảo nhau không được nản chí thất vọng, nó có nguy cơ khiến mình bị tê liệt đầu hàng.
May quá, năm 2006, trong Thư Mục Vụ của Hội Đồng Giám Mục, tôi đoán do Đức Cha Ngô Quang Kiệt chấp bút, ở gần cuối đã có một lời mời gọi khá mạnh như thế này:
“Trong tư cách Kitô hữu sống đạo, anh chị em hãy cương quyết không để cho "văn hoá sự chết" lôi cuốn mình, không chấp nhận mọi hình thức xúc phạm đến sự sống và phẩm giá con người, nhất là can đảm nói "không" với tệ nạn phá thai và ly dị vốn là những tệ nạn luôn luôn để lại hậu quả bi thảm cho gia đình cũng như cho xã hội và Giáo Hội”.
Dạo ấy, anh em DCCT chúng tôi đang giúp Đại Phúc tại Giáo Phận Bùi Chu, nơi gần như toàn tòng Công Giáo mà mức độ ngừa thai và phá thai đáng phải báo động từ lâu. Nhận được bản văn Thư Mục Vụ qua Internet, chúng tôi đã “có cơ sở” để mạnh dạn trình bày được với các cha xứ nơi nào còn do dự ngần ngại sợ đụng chạm đến chính sách kế hoạch hóa của Nhà Nước. Và thế là chúng tôi đã được “bật đèn xanh”, làm được bao nhiêu việc, và chắc chắn vì thế cũng đã cứu được không ít sinh linh.
Mãi đến cuối năm 2010 vừa qua, Trong Đại Hội Dân Chúa, có lẽ không ai ngờ bác sĩ Nguyễn Đăng Phấn lại thay mặt cho hàng ngàn anh chị em Linh Mục, Tu Sĩ và Giáo Dân thiện nguyện BVSS để đọc một bài tham luận khá dài, đặt thẳng lên bàn nghị sự của Đại Hội, hay nói đúng hơn, ngỏ lời trực tiếp với lương tâm của các đấng các bậc, để ở cương vị cao nhất của Hội Thánh địa phương tại Việt Nam, các ngài cần phải có một tiếng nói quả cảm nào đó cho việc BVSS.
Mọi sự tưởng như lại chìm đi sau những tràng pháo tay rộn rã, sau những pô ảnh chụp lưu niệm tưng bừng và sau một sứ điệp tổng kết Đại Hội thật đầy đặn và tròn trịa, không ngờ từ Roma, Đức Giáo Hoàng mở ra một chỉ thị cho Giáo Hội toàn cầu cùng tổ chức một Đêm Canh Thức cầu nguyện cho các thai nhi trong một Chúa Nhật áp Lễ Giáng Sinh 2011.
Thế là tất cả lại cựa quậy chuyển mình, khắp các Giáo Xứ các Giáo Phận trong Nam ngoài Bắc rạo rực chuẩn bị và bắt tay vào tổ chức những buổi tối chia sẻ về BVSS, những buổi giảng dạy về giáo dục giới tính trong đó thảm kịch nạo phá thai được nhấn mạnh, và nhất là đỉnh cao luôn là phần thắp nến cầu nguyện cho các em bé đang còn sống và đã bị giết chết từ trong bào thai. Ngay cả ở một số Nhà Thờ mà cha xứ tham gia UBĐKYN, vốn lâu nay là “pháo đài” cố thủ đến cùng, dứt khoát không được phép đá động đến những chuyện “nhạy cảm” làm “mích lòng” Nhà Nước, thì nay lại trở thành nơi tổ chức cầu nguyện BVSS nổi trội nhất...
Niềm hy vọng của anh chị em BVSS như vậy là lại được nhen nhúm khơi lên, cho dẫu mọi người vẫn cứ an ủi khích lệ nhau: Thôi thì cả hai chục năm qua, có văn bản chỉ đạo nào đâu từ các đấng các bậc, có lời hiệu triệu kêu gọi nào đâu từ trên cao xuống mà bọn chúng mình bên dưới vẫn nỗ lực lặng lẽ làm theo mách bảo của lương tâm, của tinh thần các thông điệp BVSS của Hội Thánh, của Đức cố Gioan Phaolô đệ nhị đấy thôi !
Vậy thì, nếu bây giờ có ai hỏi tôi: Năm mới, tôi mơ ước điều gì ?, tôi sẽ xin ước mơ một điều duy nhất liên quan đến BVSS như thế này:
Tôi ước mơ trong năm 2011 này, nếu có thể được, vào đúng dịp 25 tháng 3 sắp tới đây, Ngày Thai Nhi Thế Giới sẽ được chọn là Ngày Thai Nhi Việt Nam, và các Giám Mục Việt Nam cũng sẽ can đảm và khẳng khái lên tiếng đối với xã hội đương quyền giống như các “hiền huynh” của mình bên Philippines, rằng:
"Chúng tôi, cùng với các Linh Mục của chúng tôi, sẵn sàng đi tù, để phản đối chống lại đường lối chính sách kế hoạch hóa gia đình, thực chất là cổ võ nạo phá thai, lâu nay và bây giờ đang biến đất nước Việt Nam thành một trong các quốc gia có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới..."
Tôi ước mơ và tôi sẽ không ngừng cầu nguyện để...
Lm. QUANG UY, DCCT, Chúa Nhật 13.2.2011

VỮNG TÂM, THẦY ĐÂY

"Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh"


Lạy Chúa, xin cho con vững tâm để con sẵn sàng lên đường theo tiếng Chúa gọi. Đừng để con ngoảnh mặt đi khi bên con còn nhiều người bất hạnh. Xin cho con đến với họ bằng con tim của tình người, bằng sự cố gắng của con và ơn Chúa tuôn đổ trên con. 

Thứ Ba, 1 tháng 3, 2011

THEO GƯƠNG THẦY

"Chính anh em là muối cho đời. Nhưng nếu muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối cho nó mặn lai? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi". (Matheu. 5, 13)