Chủ Nhật, 3 tháng 7, 2011

NGÀY CỦA CHA

Ngày Thân Phụ

Posted Mon, 06/13/2011 - 10:55 by athu

Hằng năm, chúng ta có Ngày Thân Mẫu (Mother’s Day) để tôn vinh các người Mẹ, được kỷ niệm vào Chúa Nhật thứ hai của tháng Năm, và chúng ta cũng có Ngày Thân Phụ (Father's Day) để tôn vinh các người Cha, được kỷ niệm vào Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu.

Lịch sử

Nguồn gốc Ngày Thân Phụ không là một hiện tượng xảy ra trễ nhất, các học giả cho rằng Ngày Thân Phụ có từ thời Babylon bị tàn phá. Một thanh niên tên là Elmesu đã khắc Thông điệp Ngày Thân Phụ trên một tấm thiệp bằng đất sét gần 4.000 năm trước. Elmesu ước mong cha mình có sức khoẻ tốt và sống lâu. Dù không có chứng cớ về Elmesu và người cha nhưng truyền thống kỷ niệm Ngày Thân Phụ vẫn lưu truyền ở nhiều quốc gia trên thế giới.

Ngày Thân Phụ tại Hoa Kỳ

Cách nhìn ngày nay về việc kỷ niệm Ngày Thân Phụ có nguồn gốc từ Hoa Kỳ, sau đó truyền thống này lan truyền sang các nước trên thế giới. Thế giới mang ơn bà Sonora Louis Smart Dodd, một người con yêu thương ở Spokane (Washington) vì bà đã tranh đấu để có Ngày Thân Phụ như ngày nay. Bà cho rằng chúng ta tôn vinh những người Mẹ mà lại quên công khó của những người Cha trên cương vị “chống mũi chịu sào”.

Ý tưởng về Ngày Thân Phụ xuất hiện trong đầu bà Sonora khi bà tình cờ nghe bài giảng thuyết về Ngày Thân Mẫu năm 1909. Lúc đó bà 27 tuổi, bà nghĩ: “Nếu có ngày tôn vinh Mẹ thì tại sao không có ngày tôn vinh Cha?”. Bà cảm thấy thương những người cha vì tình thương bà nhận được từ người cha của bà là ông William Jackson Smart, một cựu chiến binh. Mẹ bà qua đời do sinh con khi Sonora mới 16 tuổi. Ông Smart phải chịu cảnh “gà trống” nuôi 5 đứa con bằng tất cả lòng yêu thương và chăm sóc của người cha kiêm chức năng làm mẹ.

Được cảm hứng từ việc bà Anna Jarvis đấu tranh để có Ngày Thân Mẫu, bà Dodd bắt đầu khởi xướng tổ chức Ngày Thân Phụ tại Hoa Kỳ. Hiệp hội Chính quyền Spokane (Spokane Ministerial Association) và Hiệp hội Thanh niên Kitô giáo (Young Men's Christian Association - YMCA) tại địa phương ủng hộ ý nguyện của bà Sonora. Kết quả là Ngày Thân Phụ được tổ chức lần đầu tiên vào ngày 19-6-1910. Dù ban đầu có sự lưỡng lự, nhưng vẫn được nhiều người ủng hộ, và Ngày Thân Phụ được tổ chức tại các thành phố trong quốc gia Hoa Kỳ.

Thấy rất nhiều người tụ họp kỷ niệm Ngày Thân Phụ tại Hoa Kỳ, Tổng thống Woodrow Wilson phê chuẩn việc này vào năm 1916. Tổng thống Calvin Coolidge cũng ủng hộ Ngày Thân Phụ mang tính quốc gia của Hoa Kỳ vào năm 1924: “Hãy thiết lập các mối quan hệ thân mật giữa cha con và nhấn mạnh vào trách njiệm của họ”. Sau 40 năm đấu tranh, tổng thống Lyndon Johnson ký lệnh dùng Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu là Ngày Thân Phụ từ năm 1966. Năm 1972, tổng thống Richard Nixon ký quyết định vĩnh viễn kỷ niệm Ngày Thân Phụ vào Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu hằng năm. Bà Sonora Smart Dodd được tôn vinh vì bà đã góp phần vào Hội chợ Thế giới (World's Fair) ở Spokane năm 1974. Bà Dodd qua đời năm 1978, hưởng thọ 96 tuổi.

Các giả thuyết về lịch sử Ngày Thân Phụ

Có vài giả thuyết về Ngày Thân Phụ. Một số người co rằng Ngày Thân Phụ đầu tiên được tổ chức tại miền Tây Virginia năm 1908. Một số người khác cho rằng lễ này được tổ chức lần đầu tại Vancouver, Washington.

Chủ tịch câu lạc bộ Lions tại Chicago, ông Harry Meek, được coi là người tổ chức Ngày Thân Phụ đầu tiên vào năm 1915 để nhấn mạnh vào việc tôn vinh những người cha. Ông chọn Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu để kỷ niệm, đó là ngày gần sinh nhật của ông Meek. Để đánh giá công việc của ông Meek, CLB Lions của Hoa Kỳ đã tặng ông chiếc đồng hồ bằng vàng, với lời đề tặng “Người khởi xướng Ngày Thân Phụ” (Originator of Father's Day) vào chính sinh nhật của ông, 20-6-1920. Một số sử gia tôn vinh bà Charles Clayton ở Tây Virginia là người khởi xướng Ngày Thân Phụ.

Năm 1957, thượng nghị sĩ Margaret Chase Smith viết thư gởi quốc hội: “Dù chúng ta tôn vinh người cha hay người mẹ thì cũng đừng bỏ người nào. Người cha hay người mẹ bị bỏ quên cũng đều cảm thấy buồn vậy”.

Ngày Thân Phụ được kỷ niệm vào những ngày khác nhau ở các nước khác nhau. Đa số các nước - kể cả Hoa Kỳ, Anh, Canada, Chilê, Pháp, Nhật và Ấn Độ - đều kỷ niệm Ngày Thân Phụ vào Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu.

Mặc dù Ngày Thân Phụ không cố định giống nhau tại các nước và cách kỷ niệm cũng khác nhau, nhưng ở đâu cũng chung một tâm tình là tôn vinh công lao của những người cha và bày tỏ lòng yêu thương đấng sinh thành. Vào ngày này, con cái gửi thiệp mừng, hoa và quà cho cha mình để bày tỏ lòng yêu thương và kính trọng.

Tại nhiều quốc gia có đa số là người Công giáo thì Ngày Thân Phụ được mừng vào ngày lễ kính Đức Thánh Giuse, 19 tháng Ba.

Ngày Thân Phụ được coi là rất quan trọng vì ngày này giúp nhận thức về công lao của những người cha đối với gia đình và xã hội. Việc cử hành Ngày Thân Phụ không chỉ giúp những người con có cơ hội bày tỏ yêu thương và kính trọng đối với cha mình, mà còn giúp củng cố quan hệ phụ tử và phát triển tình cảm của người con dành cho cha mình.

Lời cầu nguyện cho Thân Phụ

Lạy Thiên Chúa là Cha nhân hậu, xin chúc lành cho những người cha trên thế giới, xin hướng dẫn những người cha biết yêu thương và làm gương lành cho con cái, xin biến đổi họ trở nên những người cha như chính Chúa là Cha, xin ban cho họ tràn đầy hồng ân và kiên nhẫn trong mọi hoàn cảnh với lòng yêu thương đích thực. Amen.

KIÊU NGẠO

“TÊN KIÊU NGẠO” bị vạch mặt

Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.(Mt 11:29)
Khiêm nhường và Kiêu Ngạo giống như 2 mặt của một vấn đề.
Tương quan của chúng biến ảo kỳ diệu.
Lúc thì thằng nọ nhường cho thằng kia.
Lúc thì thằng nọ núp sau thằng kia.
Chỉ khi nào ta vạch mặt tên Kiêu Ngạo thì lúc đó anh bạn Khiêm Nhường mới hành sử đúng vai trò của mình.
Từ đó, chỗ nào Khiêm Nhường xuất hiện thì lập tức tên Kiêu Ngạo âm thầm rút lui đi chỗ khác chơi.

Kiêu ngạo là một tên đầy mưu mô và quỷ quyệt.
Nó thường lộ diện một cách trắng trợn qua những thái độ trịch thượng đầy vẻ tự mãn của những người quyền cao, chức trọng, giàu có, tài năng.
Nhưng trong môi trường đạo đức, nó khôn khéo ẩn nấp trong những nơi khó phát hiện nhất.


1. Cố tình giả vờ khiêm nhường.
Tới một chỗ nào đó, biết rằng mình phải ngồi chỗ đó nhưng cứ giả vờ ngồi chỗ bét để người ta phải năn nỉ gãy lưỡi mới chịu lên đúng chỗ của mình.
Đây là mánh khóe Kiêu ngạo chính hiệu “con nai vàng” ẩn mình trong hìn thức Khiêm nhường.
Khi được khen, tôi làm ra vẻ không xứng đáng với lời khen tặng ấy. Nhưng cũng không dám khai ra đây là do công sức của một vài người khác nữa.
Rõ ràng là Kiêu ngạo ẩn mình dưới vỏ bọc Khiêm nhường bên ngoài.


2. Kiêu ngạo ẩn núp dưới chiêu bài “Hoạt Động Tông Đồ”
Ôi!! chiêu bài này thì vô số trường hợp. Một thí dụ điển hình.
Ngay từ lúc đầu, tôi bỏ thời gian, bỏ công sức, bỏ tiền bạc, bỏ gia đình…ra đi hiến thân cho cộng đoàn. Động lực quả thực tốt đẹp, thậm chí đầy hào quang thánh thiện nữa đấy chứ. Nhưng oái oăm thay. Bất cứ điều gì xảy ra phải hợp với “ý của tôi”. Chỉ cần khác “ý của tôi” thì dù điều đó tốt đẹp đến mấy đi nữa, tôi cũng gạt bỏ thẳng tay. Không chỉ gạt bỏ ý kiến mà còn loại trừ cả những tên dám có sáng kiến tốt đẹp mang lại lợi ích cho cộng đoàn nhưng có nguy cơ làm lu mờ uy tín của ông huynh trưởng cao cấp.
Thế thì còn gì là uy tín của ông trưởng nữa??
Mất mặt bầu cua sao??
Người ta sẽ ùn ùn đi theo tên đó. Như vậy sẽ gây chia rẽ và rối loạn cộng đoàn của mình!!! Đây là một kiểu kết tội dưới chiêu bài vì “sự ổn định cộng đoàn”.
Nhưng bất cứ ai khen tặng công trình vĩ đại của tôi thì lập tức tôi liền đáp như máy: Chúa bảo phải làm thì làm chứ”. Làm như mình khiêm nhường hết mình!!
Chúa nào bảo?? trong khi chẳng thấy Chúa trong cuộc đời của mình.
Đúng là kiêu ngạo khéo léo ẩn núp dưới chiêu bài “Hoạt Động Tông Đồ”.

3. Kiêu ngạo khôn khéo núp sau ánh hào quang thánh thiện.
Nhiều người tin “sái cổ” rằng:
Chúa đã chọn “ông ấy”, vì vậy những ý của ông ấy, bất kể đúng sai, bất kể là ý gì đều là “đại diện” cho “ý Chúa”. Thánh thiện quá sức mình!!!
Vì thế, tốt nhất là
Ông ấy bảo gì.. cứ nhắm mắt mà nghe theo.
Ông ấy sai đi đâu hoặc làm gì ..mà dám từ chối…tức là làm tay sai cho Satan!!!
Thế là ông ấy tha hồ tự tung tự tác và cũng “cứ tưởng ý mình là ý Chúa” buộc cấp dưới phải “vâng lời xác chết” !!! Theo tinh thần “vâng lời tốt hơn của lễ” !!
Vì là “đại diện của Chúa ở trần gian” nên ông được bao phủ một vòng hào quang thánh thiện. Bố ai dám động đến ông!! Ông ta sẽ cho “ngồi chơi xơi nước”, thậm chí ông còn ra “vạ tuyệt thông” thì khốn cả một đời!!
Cứ như thế “thằng kiêu ngạo” trong ông lớn lên theo thời gian… đến nỗi Chúa vốn đã không có chỗ đứng trong “đền thờ” của ông (1Cr 3:16).. bây giờ trở thành “kẻ lang thang không nhà”.
Nếu nhìn vào những hoạt động bên ngoài của ông, nhiều người cũng phải thốt lên: “Ôi, đạo đức quá!!”
Quả thực là Kiêu ngạo khôn khéo núp sau ánh hào quang thánh thiện.

Quan niệm về Kiêu ngạo


Quan niệm thông thường
Khi bàn tới kiêu ngạo, người ta thường cho rằng: một người Kiêu ngạo khi cho mình là hơn, là nhất so với những người chung quanh hoặc những người trong nhóm của mình.

Theo Kinh thánh và truyền thống
Theo Cựu Ước, Kiêu ngạo có lẽ là tội xuất hiện sớm nhất trên trần gian này. Đã có môt thời gian dài Giáo hội dạy rằng:
Vì Adam đã phạm tội Kiêu ngạo – muốn bằng Đức Chúa Trời nên đã bị
Chúa trục xuất con người, và ở phía đông vườn Ê-đen, Người đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng loé, để canh giữ đường đến cây trường sinh. (St 3:24).
Câu chuyện này gợi nhớ lại hình ảnh Luxiphe đã xách động một số thiên thần nổi loạn muốn chống lại Thiên Chúa. Khi tuyên bố một câu đầy thách thức:
Non serviam – tôi không phục tùng - làm nô lệ nữa. Tội kiêu ngạo của các Thiên thần.
Chúa sai Tổng lãnh Thiên thần Michael cầm gươm lửa dàn trận đánh đuổi bè lũ “Kiêu ngạo” xuống hỏa ngục!!!

Một chút suy tư
Nếu cho rằng vì Chúa không cho ăn Trái cấm mà cứ cố mà ăn, cùng lắm cũng chỉ đáng tội KHÔNG VÂNG LỜI mà thôi
Nếu cho rằng vì khi ăn Trái Cấm thì sẽ nên như những vị thần Biết Điều Thiện Điều Ác
Như thế tốt chứ sao..
Biết điều thiện để làm
Biết điều ác để tránh..
Nhưng người ta lại cắt nghĩa rằng: như vậy là KIÊU NGẠO – muốn bằng Đức Chúa Trời - vì chỉ một mình Chúa mới được quyền Biết Điều Thiện Điều Ác mà thôi.
Cắt nghĩa kiểu này nghe có vẻ chẳng ổn chút nào.
Bằng chứng: Hiện nay Giáo hội không ngừng khuyên nhủ giáo dân làm điều thiện, tránh điều ác .
Mà muốn thực hiện đúng như vậy, tất nhiên phải phân biệt để Biết Điều Thiện Điều Ác …
Như vậy hóa ra chúng ta không ngừng phạm tội mỗi ngày… y như nguyên tổ ngày xưa… chứ có khác gì đâu!!!
Nghe có vẻ khó chấp nhận nổi.!!!!

Vậy nên hiểu như thế nào?
Đây cũng chính là việc vạch mặt TÊN KIÊU NGẠO
Thực ra, nếu tính mỗi phút một lần thì chúng ta vô tình phạm tội kiêu ngạo mỗi ngày hơn 7 trăm lần.
Tại sao nhiều dữ vậy?
Giả sử ngủ nghỉ 12 tiếng, còn 12 tiếng thức vị chi là 720 phút. Như vậy suy ra chúng ta vô tình phạm tội kiêu ngạo mỗi ngày hơn 7 trăm lần.
Tôi là người phàm làm sao tôi dám phạm tội Kiêu ngạo bằng Đức Chúa trời??
Đúng là tôi không dám minh nhiên phất cờ khởi nghĩa làm cách mạng hạ bệ Đức Chúa Trời.
Nhưng thực tế thì mỗi lần tôi chỉ thấy “cái thằng tôi” đi, đứng, ngủ, nghỉ, nói năng, làm việc..mà chẳng thấy Chúa đâu trong cuộc đời của tôi..


Mỗi lần tôi sống như người máy.
Sáng mới mở mắt ra…
Tôi đã nhảy ra khỏi giường như người máy…chẳng thấy Chúa đâu = Kiêu ngạo.
Đánh răng, rửa mặt như người máy…chẳng thấy Chúa đâu = Kiêu ngạo.
Ăn sáng như người máy…chẳng thấy Chúa đâu = Kiêu ngạo.
Đi làm hoặc đi học như người máy…chẳng thấy Chúa đâu = Kiêu ngạo.
Ăn trưa như người máy…chẳng thấy Chúa đâu = Kiêu ngạo.
Về nhà như người máy…chẳng thấy Chúa đâu = Kiêu ngạo.
Ăn tối như người máy…chẳng thấy Chúa đâu = Kiêu ngạo.
Đi ngủ như người máy…chẳng thấy Chúa đâu = Kiêu ngạo.
Sáng ngày mai… lại tiếp tục kiếp người máy….cho đến suốt đời..
Thì đích thị lúc đó tôi đã vô tình gạt Chúa ra khỏi cuộc đời mình. Coi Chúa chẳng được một kí lô nào…
Gioan tuyên xưng: Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi. (Ga 3:30)
Tôi lại sống như thể là: TÔI phải nổi bật lên, còn Chúa phải lu mờ đi.
Nói thẳng ra: tôi đã liên tục phạm tội Kiêu Ngạo từng phút, từng giờ…

Tóm lại
Việc quan trọng là phải thấy rõ – vạch mặt chỉ tên “thằng kiêu ngạo”
Dù vô tình kiêu ngạo như người máy – chẳng thấy Chúa đâu.
Dù cố tình kiêu ngạo khi tôi tìm mọi cách để làm nổi bật “cái thằng tôi”
- dẹp Chúa sang một bên, đẩy Chúa xuống dưới để “cái thằng tôi” nổi bật lên.
Thì chính lúc đó tên Kiêu ngạo mới bị vạch mặt.

Thế thì làm cách nào để triệt hạ “tên kiêu ngạo” khó chơi này??
Tôi không thể gồng mình cố gắng để hạ nó xuống bằng ý chí của con người.
Bởi vì tôi không thể dùng “thằng tôi” để trị “thằng tôi”.
Chỉ còn một cách đó là THAY THẾ
Thay vì cứ sống như NGƯỜI MÁY - …cóc cần Chúa = Kiêu ngạo.
Tôi tìm mọi cách để đón nhận Chúa vào lòng và tập sống với Ngài ngay trong đời sống thường ngày.
Có nhiều cách mà chúng tôi đã gởi gắm qua nhiều bài trong Mục NỀN TẢNG nơi trang web http://tamlinhvaodoi.net


Kính mời quý vị vui lòng thử ghé thăm một vài lần…
Một khi Ngài lớn lên thì “cái thằng tôi” sẽ tự động nhỏ đi.
Thế là tên Kiêu Ngạo sẽ không còn chỗ dung thân.
Nói cho oai vậy thôi.. đây là một cuộc chiến suốt cuộc đời bởi vì tập sống với Chúa không dễ dàng chút nào..
Khởi đầu rất vất vả…chỉ cần 3 tới 5 phút cũng đã là giỏi lắm rồi..
Sau đó, có thể từ 10 tới 15 phút…rồi có thể tới 30 phút
Cứ như thế “tên Kiêu ngạo” càng bị vạch mặt chỉ tên…càng yếu dần đi…
Lúc đó, ta mới có thể thực hiện được lời nhắn nhủ của Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay:
Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.(Mt 11:29)

5 THÓI QUEN KHÔNG TỐT CHO SỨC KHẺO

5 thói quen có hại cho sức khỏe mà bạn không để ý
1Share
(Sinh Viên Đa Minh | 93 Lượt Xem)

(SVĐM) Tắm nước nóng, dùng xà phòng tắm, uống nước ngay sau khi đánh răng, ngủ hơn 8 giờ một ngày, nằm xuống ngay sau khi ăn... là những thói quen không tốt cho sức khỏe.

Thoáng nghe tưởng chừng những cách chăm sóc sức khỏe như trên hoàn toàn lành mạnh, song tạp chí asiaone.com trích nguồn từ nhiều báo nước ngoài, dẫn chứng vài khảo sát gần đây cùng ý kiến của các chuyên gia đã đưa ra lời khuyên rằng, người ta nên bỏ những thói quen này nếu muốn có một sức khỏe tốt. Bản khảo sát này liệt kê ra 5 thói quen không tốt thường gặp sau:





1. Tắm nước nóng và dùng xà phòng:

Theo nghiên cứu, tắm nước nóng hàng ngày và dùng xà phòng rất có hại cho da. "Việc tắm rửa bằng nước nóng và xà phòng làm mất lớp dầu trên da, dẫn đến khô nứt da, thậm chí làm da nhiễm trùng", Tiến sĩ da liễu Nick Lowe (Đại học Y khoa, London, Anh) cho biết.

Vì thế các chuyên gia viện thẩm mỹ tại Austin khuyên nên tắm bằng nước mát (nước tự nhiên, không phải là nước nóng) sẽ giúp da đỡ khô hơn. Bên cạnh đó, nên dùng sữa tắm thay cho xà phòng vì sữa tắm vừa giữ ẩm tốt và làm da sạch hơn so với xà phòng.

2. Ngủ nhiều hơn 8 giờ một đêm:

Quan sát chu kỳ một giấc ngủ, các bác sĩ khẳng định để có một giấc ngủ sâu, mọi người chỉ cần từ 6 tiếng rưỡi đến 7 tiếng rưỡi mỗi đêm là đủ. Nếu ngủ ít hơn như thế tức là bạn đang bị thiếu ngủ, còn ngược lại việc ngủ quá 8 tiếng đồng hồ một đêm là dư, nó vừa khiến cơ thể mệt mỏi hơn vừa rút ngắn tuổi thọ.

Hiệp hội Ung thư Mỹ đã phân tích thói quen ngủ của hơn 1,1 triệu người tham gia chương trình nghiên cứu phòng ngừa ung thư. Nghiên cứu cho thấy những người ngủ hơn 8 tiếng mỗi ngày sẽ có "nguy cơ tử vong tăng lên đáng kể" so với người ngủ bình thường.

Vì thế, các nhà khoa học khuyến cáo, nếu ngủ nhiều hơn 8 giờ một ngày mà vẫn còn cảm giác mệt mỏi, thì bạn có thể đang bị triệu chứng rối loạn giấc ngủ, chẳng hạn như hội chứng ngừng thở khi ngủ hay chứng ngủ lịm.

Tóm lại, nên ngủ đủ giấc để bắt đầu một ngày mới sảng khoái. Cụ thể, đối với một người tuổi trung niên chỉ cần ngủ khoảng từ 6 giờ một đêm trở lên là ổn. Còn nếu bạn đang ở độ tuổi 20 mà ngủ 10 tiếng một ngày vẫn thấy không đủ, thì tốt nhất nên nhờ đến sự can thiệp của bác sĩ.

3. Súc miệng hoặc uống nước ngay sau khi đánh răng:

"Súc miệng ngay sau khi đánh răng sẽ làm mất đi lượng florua vừa phủ lên mặt răng. Thật ra, không dùng nước súc miệng ngay sau khi đánh răng sẽ kéo dài thêm thời gian florua bảo vệ men răng", Nha sĩ kiêm tiến sĩ Phil Stemmer, trung tâm bảo vệ hơi thở thơm mát tại London nói.

Với kinh nghiệm của mình, Stemmer cho biết ông tránh uống các loại nước ít nhất nửa giờ sau khi đánh răng. Điều này được lý giải về mặt lý thuyết, florua trong kem đánh răng có thể cung cấp thêm một lớp khoáng bảo vệ răng (dù chỉ là tạm thời). Mà hiện nay hầu hết loại kem đánh răng trên thị trường đều chứa Florua. Vì vậy, tốt nhất sau khi đánh răng nên để lớp florua này lưu lại trên bề mặt răng càng lâu càng tốt.

4. Ngồi bệt trên bồn cầu cao khi đi vệ sinh:

Một điều đáng ngạc nhiên là ngồi bệt lâu khi đi vệ sinh không hề tốt cho sức khỏe. Bởi tư thế ngồi vừa khiến cơ thể bạn ở trong trạng thái căng thẳng vừa tăng nguy cơ bị trĩ và viêm ruột thừa.

"Ngồi xổm thực sự tốt cho sức khỏe hơn", nghiên cứu của những nhà khoa học tại Israel cho biết. Nghiên cứu cho thấy ngồi xổm (trên loại bồn cầu được thiết kế thấp) là tư thế tự nhiên và thoải mái hơn, thúc đẩy việc bài tiết nhanh và dễ dàng.

Cùng quan điểm này, một bác sĩ người Pháp chuyên về bệnh trực tràng, đại tràng và hậu môn cũng khuyên: "Tôi cho rằng không nên ngồi khi đi vệ sinh, tốt hơn là nên ngồi xổm."

Để kiểm chứng luận điểm này, phóng viên của tạp chí Slate đã thử ngồi xổm khi đi vệ sinh trong vòng một tuần và viết lại trên bài của mình. Ông này cho biết, chỉ mất một hoặc hai phút đi vệ sinh với tư thế ngồi xổm thay vì mất 10 phút như bình thường.

5. Thư giãn hoặc nằm ngay sau khi ăn tối:

Thư giãn hoặc nằm sau khi ăn tối có thể khiến bạn tăng cân. "Việc ăn uống hoặc không vận động vào buổi tối trước khi đi ngủ sẽ khiến tích tụ chất béo trong cơ thể", chuyên gia dinh dưỡng Claire MacEvilly nhìn nhận.

Ngoài ra, các nhà khoa học Anh cũng đưa ra kết luận trong một nghiên cứu, tập thể dục sau khi ăn có thể giúp giảm cân vì vận động làm tăng cường các hoóc môn giúp ức chế cảm giác thèm ăn.

Tuy nhiên, cần lưu ý không nên tập thể dục ngay sau khi ăn, mà tốt nhất nên tập sau bữa ăn khoảng 30 phút đến 1 giờ. Bởi vận động mạnh khi vừa ăn no ảnh hưởng không tốt đến hệ tiêu hóa và gây ra cảm giác khó chịu. Còn nếu thực sự muốn tập thể dục ngay sau khi ăn, bạn có thể đi bộ nhanh trong 20 phút, hoặc tản bộ nhẹ nhàng trong 30 phút.

martino

Thứ Sáu, 1 tháng 7, 2011

7 LÝ DO ĐỂ LÃNH NHẬN BÍ TÍCH HÒA GIẢI

ĐGH Gioan-Phaolô II xưng tội hằng ngày, ngài nói: "Theo ơn gọi mà con người nhận từ Thiên Chúa, tìm sự thánh thiện sẽ là ảo tưởng nếu không thường xuyên tham dự Bí tích Hòa giải. Những người thường xuyên xưng tội với ước muốn tiến bộ sẽ thấy những bước dài trong đời sống tâm linh".

Đây là 7 lý do để thường xuyên xưng tội trong Mùa Chay Thánh (hằng tuần hoặc hai tuần một lần):

1. Sự tha tội là tặng phẩm Chúa Giêsu trao cho chúng ta.

Đức Kitô đã trao ban cho chúng ta Bí tích Hòa giải và muốn chúng ta tận hưởng hồng ân qua Bí tích này. Ngài nói với các linh mục tiên khởi, các Tông đồ: "Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì người ấy được tha" (Ga 20:22). Chúa Kitô trao cho chúng ta Bí tích của Ân Sủng và Lòng Tha Thứ vì Ngài yêu thương tất cả chúng ta. Đó là Tặng phẩm của Lòng Thương Xót chứ không chỉ là nhiệm vụ.

2. Chúng ta đều là tội nhân.

Chúng ta đều là tội nhân, cần phải xét mình và sám hối để lãnh nhận ơn tha thứ. "Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta" (1 Ga 1:8). Chúng ta thường không chân thật với lòng mình và không dùng "thầy thuốc tâm hồn" để giúp chẩn đoán chúng ta về phương diện tâm linh. Nếu bạn đau ở tay hoặc ở lưng, bạn phải đi bác sĩ. Nếu bạn bị đau ở linh hồn qua việc phạm tội, sao bạn không đi chữa bệnh tâm linh – đi xưng tội?

3. Xưng tội là phương thế hồng ân.

Không nên sợ xưng tội. Xưng tội là bình an. Chúng ta vui mừng lãnh nhận Bí tích Rửa tội, Bí tích Hôn phối, và Bí tích Truyền chức. Tại sao chúng ta không dùng phương kế xưng tội là cuộc chiến đấu vĩ đại nhất của người tin vào Đức Kitô? Tại sao chúng ta không vui mừng khi được Chúa Kitô tha thứ qua vị linh mục đại diện cho Thiên Chúa và giáo hội?

4. Người ta có thể phạm những tội dẫn đến cái chết.

Có những tội dẫn đến cái chết: "Nếu ai biết anh em mình phạm thứ tội không đưa đến cái chết, thì hãy cầu xin, và Thiên Chúa sẽ ban sự sống cho người anh em ấy; đó là nói về những ai phạm thứ tội không đưa đến cái chết. Có một thứ tội đưa đến cái chết, tôi không bảo phải cầu xin cho thứ tội ấy" (1 Ga 5:16). Tội dẫn đến cái chết và tách linh hồn chúng ta khỏi sự sống vĩnh hằng thuần khiết ở nơi Thiên Chúa Ba Ngôi. Sự ăn năn và sự tha thứ bảo toàn tâm hồn chúng ta ở trong tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Sự tha tội truyền ân sủng vào tâm hồn chúng ta và "phê chuẩn" sự sám hối của chúng ta.

5. Tội lỗi gây khó chịu.

Ma quỷ thường đè nặng chúng ta bằng tội lỗi. Tội lỗi có thể là điều tốt nếu chung ta chuyển tội lỗi thành lòng sám hối. Dĩ nhiên ma quỷ ghét điều này, nhưng Thiên Chúa và các thiên thần lại yêu thích điều đó. Do đó, hãy thoát ra khỏi tội lỗi và nghe linh mục nói: "Tôi tha tội cho bạn nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần".

6. Confession unites you more fully to the Church.

Khi bạn xưng tội, bạn nhận biết mình đã phạm tội chống lại Thiên Chúa, đồng thời chống lại những người khác, bạn đã làm suy yếu sự làm chứng của mỗi Kitô hữu. Vô tình bạn nói với những người không có niềm tin Kitô rằng: "Tất cả Kitô hữu đều giả nhân giả nghĩa" (All Christians are hypocrites). Khi bạn đi xưng tội, bạn nhận biết mình đã làm đau lòng các Kitô hữu bằng chính tội lỗi của mình. "Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung" (1 Cr 12:26). Linh mục đại diện Thiên Chúa và giáo hội nhờ Bí tích Truyền chức, linh mục nhận lời thú tội của bạn và bảo đảm ơn tha tội của Thiên Chúa và toàn thể giáo hội.

7. Rước lễ làm bạn mạnh mẽ hơn.

Khi bạn rước lễ, bạn lãnh nhận Mình Máu Chúa Kitô thật, Ngài là Đấng Cứu Độ. Khi bạn xưng tội và rước lễ, bạn được kết hợp với Chúa Kitô qua Bí tích Thánh Thể. Cũng vậy, nếu bạn sống trong tội, bạn sẽ KHÔNG BAO GIỜ được lãnh nhận Thánh Thể vì bạn sẽ phỉ báng Chúa Kitô và và đáng nguyền rủa đời đời! Do đó, xưng tội là chữa lành linh hồn và làm sâu lòng yêu mến Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể.

DỄ VÀ KHÓ

DỄ VÀ KHÓ

Dễ là khi bạn có một chỗ trong sổ địa chỉ của một người, nhưng khó là khi bạn tìm được một chỗ trong trái tim của người đó.
Dễ là khi đánh giá lỗi lầm của người khác, nhưng khó là khi nhận ra sai lầm của chính mình.
Dễ là khi nói mà không suy nghĩ, nhưng khó là khi biết kiểm soát những lời nói của mình.
Dễ là khi làm tổn thương một người mà bạn yêu thương, nhưng khó là khi hàn gắn vết thương đó.
Dễ là khi tha thứ cho người khác, nhưng khó là khi làm cho người khác tha thứ cho mình.
Dễ là khi đặt ra các nguyên tắc, nhưng khó là khi làm theo chúng.
Dễ là khi nằm mơ hàng đêm, nhưng khó là khi chiến đấu vì một ước mơ.
Dễ là khi thể hiện chiến thắng, nhưng khó là khi nhìn nhận một thất bại.
Dễ là khi vấp phải một hòn đá và ngã, nhưng khó là khi đứng dậy và đi tiếp.
Dễ là khi hứa một điều với ai đó, nhưng khó là khi hoàn thành lời hứa đó.
Dễ là khi chúng ta nói rằng chúng ta yêu thương, nhưng khó là khi làm cho người khác cảm thấy như thế hàng ngày.
Dễ là khi phê bình người khác, nhưng khó là khi cải thiện chính bản thân mình.
Dễ là khi để xảy ra sai lầm, nhưng khó là khi học từ những sai lầm đó.
Dễ là khi buồn bực vì một điều gì đó mất đi, nhưng khó là khi quan tâm đủ đến điều đó để đừng làm mất.
Dễ là khi nghĩ về một việc, nhưng khó là khi ngừng suy nghĩ và bắt đầu hành động.
Dễ là khi nghĩ xấu về người khác, nhưng khó là khi cho họ niềm tin.
Dễ là khi nhận, nhưng khó là khi cho.
Dễ là khi đọc những điều này, nhưng khó là khi bạn thực hiện nó.
Nếu cơ hội mãi không gõ cửa, bạn phải xem mình đã xây một cánh cửa chưa đã …..

Thứ Ba, 28 tháng 6, 2011

PHÁT TRIỂN ƠN GỌI

Phát triển Ơn Gọi Truyền Giáo trong một giáo xứ
J.B. Nguyễn Quốc Tuấn6/28/2011

Làm thế nào để phát triển ơn gọi truyền giáo trong một giáo xứ là mối bận tâm đang được đặt ra cho công cuộc loan báo Tin Mừng hôm nay. Việc phát triển này nói lên vai trò đặc biệt quan trọng của mỗi giáo xứ có ảnh hưởng sâu rộng đối với sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội. Do đó, giáo xứ trở thành hạt nhân cơ bản giúp phát triển ơn gọi truyền giáo cách hiệu quả và bền vững. Là thành viên của từng xứ họ nhất định, người Kitô hữu ngày càng ý thức thâm sâu hơn ơn gọi của mình nhờ việc khám phá và làm triển nở các giá trị Tin Mừng trong hoàn cảnh và môi trường sống đặc thù tại nơi mình đang sinh sống. Đây là yêu cầu cấp thiết đòi hỏi sự tâm huyết và khôn ngoan của các mục tử và cộng đồng tín hữu nói chung. Nhờ đó, tương quan Đức ái không chỉ biểu tỏ trong nội bộ từng giáo xứ nhất định mà còn hướng tới việc cố kết ngày càng khăng khít hơn với các cộng đồng lương dân trên cơ sở tôn trọng, đối thoại và hiệp nhất.

1. Giáo xứ, hạt nhân phát triển ơn gọi truyền giáo

Như đã đề cập, giáo xứ là hạt nhân cơ bản để phát triển ơn gọi truyền giáo. Mọi định hướng, chương trình cụ thể mang tính vĩ mô liên quan đến việc xúc tiến công cuộc truyền giáo nếu không được triển khai bước đầu từ mỗi giáo xứ thì e rằng khó có thể đạt được những kết quả khả quan. Do đó, giáo xứ trở thành địa bàn lý tưởng nhất để khơi dậy và phát triển ơn gọi truyền giáo vốn tiềm tàng và phong phú từ chính tâm hồn của mỗi Kitô hữu. Dù có những đặc thù, mỗi giáo xứ đều hội tụ những khả năng cần thiết nhằm thúc đẩy việc truyền giáo. Vấn đề là là làm sao để phát hiện và vận dụng những khả năng ấy. Trên thực tế, tại các giáo xứ ở Việt Nam nói chung, hướng phát triển này còn rất hạn chế do bị chi phối bởi những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau. Chúng ta có thể nhận ra một thực trạng, đó là, hoạt động truyền giáo tại các giáo xứ chưa thoát ra khỏi những đường hướng truyền thống kém hiệu quả, còn mang tính hình thức và khép kín, nặng về số lượng… Yếu tố con người chưa được đề cao, nhất là ơn gọi truyền giáo chưa được khơi dậy cách đúng mức.

Để phát triển ơn gọi truyền giáo trong một giáo xứ, linh mục quản xứ và cộng đoàn tín hữu cần hoạch định một kế hoạch toàn diện, trong đó việc phát triển nhân bản và làm sáng tỏ gương mặt đích thực của Đức Kitô là sứ vụ căn yếu nhất. Phải làm sao tạo cho môi trường giáo xứ thành một cộng đồng sinh động, mang đậm bản sắc liên đới vị tha là giá trị nền tảng của Tin Mừng.

2. Định hướng phát triển

2.1. Gây ý thức ơn gọi truyền giáo

Đây là điều cần làm trước hết của người mục tử khi đến nhận lãnh nhiệm sở. Bởi mọi định hướng liên quan đến hoạt động truyền giáo sẽ không đạt hiệu quả mong muốn nếu không gây được ý thức về ơn gọi truyền giáo. Do đó, cha sở phải biết cách tạo lập nơi người giáo dân tinh thần xả kỷ, sẵn sàng tận hiến cho hoạt động tông đồ.

Gây ý thức ơn gọi truyền giáo được được thực hiện qua việc tác động cách toàn diện sâu rộng trên mọi sinh hoạt tâm linh và đời sống xã hội thường nhật của của người giáo dân, phải làm sao đưa họ “trở lại với Đức Kitô, cởi bỏ hết mọi ý thức hệ, mọi quan niệm thần học hoài nghi, cả chính mình, mà theo Đức Kitô trong sứ mệnh của Ngài: “Không thể mời gọi người khác trở lại nếu chính chúng ta không trở lại mỗi ngày” (Sứ mệnh…, 47) (Felipe Gómez, SJ, Truyền giáo học 1, Antôn & Đuốc sáng, tr. 173). Những tác động này luôn được đặt dưới ánh sáng Lời Chúa với Đức ái Kitô giáo làm kim chỉ nam cho mọi ý tưởng hướng tới sứ vụ loan báo Tin Mừng.

Việc gây ý thức về ơn gọi truyền giáo là một tiến trình đầy khó khăn nhưng đó là bước chuẩn bị có tính quyết định đối với một giáo xứ trong sứ vụ truyền giáo nói chung.

2.2. Phát triển đội ngũ truyền giáo

Một khi đã gây được ý thức truyền giáo, hay nói cách khác đã tạo lập được “tinh thần truyền giáo” mạnh mẽ, giáo xứ sẽ gặp được lợi thế cho bước tiếp theo là phát triển đội ngũ truyền giáo. Có thể nói, ơn gọi truyền giáo tại mỗi giáo xứ có biểu hiện sinh động và bừng phát mạnh mẽ hay không cần phải kể đến đội ngũ truyền giáo tại giáo xứ ấy phát triển tới mức độ nào. Do đó, việc xây dựng đội ngũ truyền giáo là yêu cầu cấp thiết giúp cho hoạt động truyền giáo trong giáo xứ được phát triển có hệ thống trên nền tảng liên đới.

Đội ngũ truyền giáo được quy tụ trên cơ sở lòng tự nguyện của người giáo dân, làm sao cho họ ý thức được trách vụ cao cả khi quên mình dấn thân xây dựng giáo xứ thành cộng đoàn truyền giáo năng động.

Cha xứ là người tiên phong trong đội ngũ truyền giáo của giáo xứ. Ngài là người chủ động hoạch định mọi chương trình liên quan đến việc phát triển ơn gọi truyền giáo trong giáo xứ, đồng thời nỗ lực tạo điều kiện cho hoạt động truyền giáo tại nhiệm sở của mình đạt hiệu quả nhất.

Hội đồng mục vụ, các ban - ngành, đoàn thể là những nòng cốt của đội ngũ truyền giáo trong một giáo xứ. Do đó, các đối tượng này được xây dựng, phát triển song song cả về lượng và chất. Về lượng: phải làm sao cho số thành viên tự nguyện tham gia các ban, ngành, hội đoàn ngày càng đông đảo, đủ mọi lửa tuổi, trình độ học vấn... Về chất: thành viên tham gia đội ngũ truyền giáo chính thức của giáo xứ phải là các đối tượng giàu nhiệt huyết tông đồ, biết dấn thân cho lợi ích chung của cộng đoàn giáo xứ và mọi người. Do đó, việc đào luyện “tinh thần truyền giáo” cho đội ngũ truyền giáo là mục tiêu quan trọng xuyên suốt hoạt động truyền giáo.

Cha xứ thường xuyên tổ chức các lớp huấn luyện về kỹ năng chuyên môn cho đội ngũ truyền giáo của giáo xứ đã được thiết lập. Các lớp học này do chính cha xứ trực tiếp hướng dẫn hoặc do các chuyên gia có chuyên môn, kinh nghiệm về hoạt động đoàn thể Công giáo được mời đến chia sẻ.

Giáo xứ cần đầu tư và tạo những điều kiện cần thiết cho các hội đoàn có linh đạo truyền giáo dễ thích nghi với môi trường truyền giáo của giáo xứ như: Hội Têrêxa, Gia đình Khôi Bình, Gia đình Thánh Tâm, Hội Lêgiô...

Cha xứ thường xuyên tổ chức tĩnh tâm định kỳ cho các ban, ngành, đoàn thể vào các dịp quan trọng có liên quan đến những sự kiện truyền giáo của Giáo Hội: Ngày Quốc tế Truyền giáo, Ngày Quốc tế Bệnh nhân…Chủ đề tĩnh tâm cần tập trung nhắm tới ơn gọi truyền giáo, khích lệ và kêu mời các thành viên trong đội ngũ truyền giáo nòng cốt của giáo xứ hãy dấn thân bằng cả tâm huyết cho việc loan báo Tin Mừng. Cha xứ cần tận dụng các kỳ tĩnh tâm cho các hội đoàn để hâm nóng tinh thần truyền giáo, bầu khí liên đới trong hoạt động truyền giáo giữa các thành viên này, thúc đẩy và nâng đỡ họ vượt qua mọi khó khăn khi phải đối diện với lợi ích riêng tư của gia đình và của cộng đoàn.

Trong tương quan ơn gọi truyền giáo nói chung, cha xứ không ngừng nỗ lực kêu gọi, khích lệ về tinh thần, vật chất để nâng đỡ ơn gọi truyền giáo, đặc biệt là ơn gọi linh mục, tu sỹ nơi những người trẻ trong giáo xứ - Đây là những hạt mầm Đức tin sẽ triển nở và giúp cho mảnh đất truyền giáo tại mỗi giáo xứ ngày càng màu mỡ, phong phú và dồi dào hơn. Không chỉ trên tòa giảng, cha xứ nên thường xuyên gặp gỡ, chia sẻ thân tình với các bạn trẻ trong giáo xứ về ơn gọi và thao thức loan báo Tin Mừng trong thời đại hôm nay. Qua những buổi gặp gỡ này, cha xứ sẽ là người đồng hành cùng các em trong việc tháo gỡ những khúc mắc, khó khăn và tạo điều kiện cho các em được phát triển lý tưởng cao đẹp nơi mình, là trở thành tông đồ mẫu mực của Chúa Kitô, hết lòng phục vụ những người nghèo khổ nhất.

2.3. Phát triển ơn gọi truyền giáo trong giáo xứ qua đời sống thực tiễn

Để phát triển ơn gọi truyền giáo trong giáo xứ, ngoài các yếu tố đã nêu trên thì việc sống “tinh thần truyền giáo” qua đời sống thực tiễn là yêu cầu quan trọng nhất nhằm đem lại hiệu quả tích cực cho hoạt động truyền giáo của mỗi giáo xứ.

1. Chứng nhân sống niềm tin

Phát triển ơn gọi truyền giáo ở khía cạnh này được bắt đầu từ mỗi cá nhân và gia đình trong giáo xứ. Cha xứ, Hội đồng mục vụ giáo xứ, đội ngũ giáo lý viên tích cực chăm lo nuôi dưỡng đời sống Đức tin của của người giáo dân và định hướng cho họ sống tốt vai trò tông đồ qua những hoạt động thực tiễn thường ngày.

Kêu mời và tạo điều kiện cho mọi gia đình trong giáo xứ trở thành điểm sáng như những “Gia đình Nazareth nhỏ” biết tận tâm phục vụ lợi ích những người xung quanh. Quy tụ các bậc làm cha mẹ vào các hội đoàn của giáo xứ như Hội Giuse, Hội Các Bà Mẹ Công Giáo…Thông qua các Hội này, cha xứ thường xuyên tiếp xúc, chia sẻ và thúc đẩy các hội viên hãy trở nên những mẫu mực tuyệt hảo cho con cái trong việc sống ơn gọi truyền giáo. Chính các bậc cha mẹ là những tông đồ giáo dân đắc lực khi tham gia các hoạt động truyền giáo của giáo xứ. Cha xứ cũng thường xuyên chia sẻ và gợi mở cho những người làm cha mẹ những đường hướng tâm linh giúp họ trở nên điển chứng Tin Mừng giữa “chợ đời”.

Các ban - ngành, đoàn thể của giáo xứ là những trung gian giữa cha xứ và các gia đình. Trong trường hợp gia đình nào xẩy ra bất hòa bất thuận nội bộ hay với những người lương dân thì cha xứ và các đại diện của các đoàn thể sẽ trực tiếp giải hòa và nối lại dây liên đới giữa các bên liên quan.

Thông qua các lớp giáo lý thuộc Khối Vào Đời và Tiền Hôn Nhân, cha xứ và các giáo lý viên cần gợi mở và tạo cho các học viên ý thức được vai trò chứng nhân của “phía” Công giáo khi được mời gọi “nên duyên” cùng người bạn đời không chung niềm tin với mình.

2. Chủ động đối thoại

Cha xứ và cộng đoàn giáo xứ chủ động trong việc đối thoại với bà con lương dân và những người theo các tôn giáo khác cùng sinh sống ngay trên địa bàn giáo xứ cũng như các cộng đồng phụ cận. Tinh thần truyền giáo chỉ có thể lan tỏa khi mỗi thành viên trong giáo xứ biết cởi mở, tôn trọng những khác biệt đối với anh chị em không cùng niềm tin với mình. Do đó, để có thể phát triển ơn gọi truyền giáo, cha xứ và Hội đồng mục vụ giáo xứ cần định ra những hình thức đối thoại nhằm củng cố và siết chặt tình liên đới giữa cộng đoàn của mình với các cộng đồng xung quanh.

Tôn trọng những khác biệt: cha xứ thường xuyên nhắc nhở bà con giáo dân không nên có thái độ thành kiến trước những dị biệt trong văn hóa ứng xử của bà con lương dân xung quanh, nhưng thấy được giá trị nhân văn ẩn tàng trong lối sống, cách sống của họ. Tuyệt đối tránh những cuộc cãi cọ, tranh luận vô bổ về quan điểm tín ngưỡng, tôn giáo hay hệ tư tưởng giữa những người có đạo với những người lương dân.

3. Nhịp cầu tâm giao

Những định hướng trên chỉ có thể trở thành hiện thực khi cộng đoàn giáo xứ biết chủ động bắc những “nhịp cầu tâm giao”. Nhịp cầu này được khởi phát từ con tim đã thấm nhuần Đức ái Kitô giáo, biết chia sẻ yêu thương với hết mọi người.

Để nhịp cầu tâm giao được thông suốt, mọi thành viên trong xứ cần xóa bỏ mọi dị nghị, ác cảm với anh chị em lương dân xung quanh. Cha xứ và những người hữu trách của giáo xứ là những người đi bước trước để khai thông những bế tắc làm cản trở tình thân hữu giáo lương.

Về giao thông: phối hợp làm những trục lộ chung giữa hai làng giáo – lương nhằm tạo thuận lợi cho việc giao lưu gặp gỡ được dễ dàng, thuận tiện.

Về giải trí: giáo xứ nên tổ chức các sân chơi chung: sân bóng chuyền, bóng đá…, và tạo điều kiện đón tiếp bà con, nhất là các bạn trẻ từ các làng lương lân cận đến cùng giao hữu thường xuyên tại các sân chơi này. Tùy điều kiện cho phép, các sân chơi có thể đặt tại một địa điểm nhất định trên địa bàn giáo xứ, tốt nhất là gần nhà thờ xứ .

Về giáo dục: giáo xứ mở các lớp học phụ đạo về văn hóa tại trường giáo lý của giáo xứ và cho các em học sinh lương dân đến tham dự các lớp học này. Các em không chỉ được nâng cao về trình độ văn hóa mà còn có cơ hội tiếp xúc để hiểu biết nhau hơn.

Vào các dịp đại lễ như Noel, Tết Nguyên đán…, các gia đình, nhất là các bạn trẻ trong giáo xứ tổ chức mời các gia đình nhất là các bạn trẻ lương dân đến tham dự các chương trình canh thức, họp mặt đầu xuân và dự tiệc vui thân mật. Nếu được, giáo xứ nên cho phép bạn bè lương dân được tham gia các tiết mục hoạt cảnh, ca hát giàu tính nhân văn và chia sẻ những cảm nghiệm riêng tư liên quan đến đời sống tâm linh và triết lý nhân sinh.

Để nhịp cầu tâm giao ngày càng bền vững hơn, giáo xứ cần tổ chức các nhóm tình nguyện viên, các đội cứu trợ của giáo xứ thường xuyên tham gia các hoạt động thăm hỏi, cứu trợ các gia đình, cá nhân tại các làng lương bị đau nặng, gặp tai ương, hoạn nạn.

4. Hoạt động từ thiện – bác ái

Để phát triển ơn gọi truyền giáo trong giáo xứ, việc xúc tiến và đẩy mạnh hoạt động từ thiện – bác ái được coi là đòi hỏi đặc biệt cần thiết cho hành vi “sống đức tin” trong sứ vụ truyền giáo. Do vậy, giáo xứ cần phải đặt hoạt động từ thiện – bác ái làm tiêu chí hàng đầu cho thành công của hoạt động truyền giáo.

Muốn hoạt động từ thiện bác ái thành công, giáo xứ cần có chương trình đào luyện “tinh thần truyền giáo” cho đội ngũ truyền giáo như đã nêu trên. Đội ngũ này không chỉ năng động trong công tác mà luôn chứng tỏ được phẩm tính của người môn đệ Chúa Kitô, biết quên mình vì hạnh phúc của người khác.

Thành lập Quỹ bác ái: kêu gọi mọi người trong giáo xứ hãy bỏ những “đồng xu bà góa nghèo” vào quỹ bác ái của giáo xứ với tinh thần “lá rách ít đùm lá rách nhiều”. Quỹ này do Ban Bác Ái – Caritas nắm giữ.

Kêu gọi các gia đình khá giả, các nhà hảo tâm trong giáo xứ nâng đỡ cách đặc biệt cho những gia đình, cá nhân đang lâm vào hoàn cảnh quá bi đát do nghèo túng, bệnh tật.

Hoạt động từ thiện – bác ái được mở rộng đến các đối tượng không phân biệt lương giáo: các gia đình nghèo, người đau ốm, neo đơn, học sinh nghèo vượt khó…

Các ban – ngành, đoàn thể của giáo xứ, đặc biệt là Ban Bác Ái lập danh sách cụ thể các đối tượng giáo dân cũng như lương dân cần được quan tâm thăm hỏi, chăm sóc, cưu mang trong điều kiện có thể. Đối với những người già yếu neo đơn, giáo xứ nên cắt cử hoặc mời gọi những người thiện nguyện trong cộng đoàn đến chăm sóc, lo lắng thuốc men và các nhu cầu cần thiết khác cho họ. Giáo xứ có thể xây sẵn vài ba căn hộ nhỏ trên vùng đất thuộc giáo xứ và ưu tiên mời những người neo đơn không có nhà cửa đến ở tại căn hộ này. Đối với những trường hợp gặp rủi ro, hoạn nạn, mất mát về tinh thần, các ban ngành, đoàn thể của giáo xứ đến động viên, khích lệ và nâng đỡ họ bằng tinh thần hay vật chất, giúp họ sớm vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống.

Khi có người trong giáo xứ hay bà con lương dân sống trên địa bàn giáo xứ và những vùng phụ cận qua đời, cha xứ và các ban ngành đoàn thể kịp thời đến phân ưu, cầu nguyện, giúp đỡ tang quyến.

Công tác từ thiện – bác ái của giáo xứ không đơn thuần chú trọng việc trao ban vật chất, mà còn hơn thế nữa, các thành viên trong giáo xứ khi tham gia hoạt động này được hướng tới việc biểu tỏ gương mặt đích thực của Đức Kitô biết “chạnh lòng thương” những ai bé mọn, yếu đuối, bần cùng.

5. Cùng tham gia hoạt động công ích và phát triển nhân bản

Cha xứ và các ban ngành đoàn thể phát động, cổ vũ bà con giáo dân cùng với anh chị em lương dân tham gia các hoạt động công ích: bảo vệ môi trường, bài trừ tệ nạn xã hội, xây dựng các công trình phúc lợi chung nhằm phục vụ đồng thời cho cả bà con giáo dân và lương dân đang sinh sống trên địa bàn giáo xứ. Chúa nhật hàng tuần, cha xứ kêu gọi các em trong Hội Têrêxa, Hội Thiếu Nhi Thánh Thể cùng với các bạn trẻ lương dân tham gia thu gom rác thải và làm vệ sinh các trục đường công cộng…

Trên tinh thần cùng nhau xây dựng, phát triển, mọi thành viên trong giáo xứ có trách nhiệm liên đới với cộng đồng lương dân và những những người theo tôn giáo khác trong những vấn đề có liên quan đến phẩm giá và quyền lợi chính đáng của con người.

Giáo xứ kêu mời và phát động các bạn trẻ trong giáo xứ tham gia các nhóm bảo vệ sự sống của giáo xứ, giáo phận hay liên giáo phận. Cha xứ thường xuyên tổ chức các cuộc nói chuyện với các bạn trẻ về tác hại của phá thai theo nhãn quan luân lý; khích lệ và tạo điều kiện cho họ trở nên chứng nhân đắc lực bảo vệ sự sống, bảo vệ các quyền căn bản của con người.

Phát triển ơn gọi truyền giáo trong giáo xứ là yêu cầu cấp thiết cho sứ vụ loan báo Tin Mừng. Vấn đề này đòi hỏi sự nỗ lực và dấn thân cao độ của mọi thành phần dân Chúa tại mỗi giáo xứ nhất định. “Tinh thần truyền giáo” không chỉ biểu tỏ và giới hạn trong các nhóm, các hoạt động mang tính hình thức nhỏ lẻ. Trên hết, ơn gọi truyền giáo là một hồng ân và được khởi đi từ chính con tim tràn đầy yêu thương của Đức Kitô. Do vậy, để giáo xứ thực sự trở thành điểm sáng của đời sống chứng nhân Tin Mừng, các tín hữu được mời gọi bước theo Đức Kitô trên hành trình thứ tha, chia sẻ, nhất là biết chấp nhận những thiệt thòi, để qua đó, mọi người nhận ra cộng đoàn Đức tin sinh động đang hiện tỏ giữa lòng thế giới hôm nay.

Thứ Hai, 20 tháng 6, 2011

CHÚA BA NGÔI: TGM NGÔ QUANG KIỆT

THIÊN CHÚA TÌNH YÊU

Một bạn trẻ hỏi tôi: “Thưa Cha, tại sao đạo Phật khi xây chùa thì chọn những nơi rừng núi thâm u, xa hẳn thị thành, còn đạo Công Giáo khi xây nhà thờ lại chọn những nơi dân cư đông đúc, phồn hoa đô hội?” Tôi trả lời: “Bạn quả là có con mắt nhận xét. Việc xây cất chùa chiền, nhà thờ như vậy, thực ra, phát xuất từ quan niệm nền tảng của đạo. Đạo Phật là đạo xuất thế. Đức Phật vì thấy những cảnh khổ ở đời trong sinh, lão, bệnh, tử nên đã tìm môt con đường mong giải thoát chính mình và nhân loại khỏi cảnh khổ não ở đời. Vì thế Ngài đã từ giã cung đình, rũ sạch bụi trần, xa lánh phồn hoa. Trái lại đạo Công Giáo là đạo nhập thế. Thiên Chúa thấy con người trầm luân khổ ải nên chạnh lòng thương, đã sai Con Một là Chúa Giêsu xuống trần để cứu độ chúng sinh. Chúa Giêsu xuống trần không chỉ là nhập thế, mà còn hoá thân một người nghèo sống giữa người nghèo, người tội lỗi để đưa mọi người về với Chúa, đó là nhập thể. Có thể nói đạo Công Giáo diễn tả việc Thiên Chúa đi tìm con người.

Thiên Chúa đi tìm con người vì Thiên Chúa yêu thương con người. Không yêu thương thì chẳng việc gì phải đi tìm. Đi tìm tức là có quan tâm. Xa vắng thì nhớ. Thấy khổ vì thương. Vì thương, vì yêu nên phải cất bước đi tìm.

Không phải Thiên Chúa chỉ yêu thương khi con người gặp đau khổ. Thực ra Thiên Chúa đã yêu thương con người từ trước, từ khi chưa có con người. Vì Thiên Chúa là tình yêu thương.

Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thì không thể sống đơn độc nên phải có Ba Ngôi. Vì yêu thương không chỉ là cho đi nhưng còn là nhận lãnh. Muốn cho đi, phải có đối tượng để nhận lãnh. Muốn nhận lãnh cũng đòi phải có người sẵn sàng cho đi. Vì Thiên Chúa là tình yêu, nên Thiên Chúa là Ba Ngôi để có thể cho đi và nhận lãnh.

Thiên Chúa là tình yêu tuyệt hảo nên sự cho đi và nhận lãnh ở nơi Ba Ngôi Thiên Chúa cũng đạt đến mức tuyệt hảo. Thiên Chúa Cha trao ban cho Chúa Con tất cả những gì mình có, nên Chúa Con là hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha, đến nỗi Chúa Giêsu có thể nói: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha Thầy, Thầy và Cha là một”. Vì yêu, Chúa con dâng lại cho Chúa tất cả những gì mình nhận lãnh. Việc hiến dâng này ta thấy rõ trong thái độ khiêm tốn, tự hạ, vâng phục vô biên của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha. Chúa Giêsu đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Chúa Giêsu đã quả quyết: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu”. Và Người đã vì Chúa Cha mà hiến mạng sống.

Thiên Chúa là tình yêu tuyệt đối. Tình yêu ấy không chỉ đóng kín nơi bản thân mình. Cũng không chỉ dừng lại ở một đối tượng hạn hẹp. Nhưng vượt mọi ranh giới, lan toả đến mọi góc biển chân trời. Ba Ngôi Thiên Chúa là một bầu trời tình yêu hạnh phúc. Nhưng tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa không chỉ thu gọn trong cộng đoàn Ba Ngôi, mà lan toả đến khắp vũ trụ, ấp ủ cả thế giới, nâng niu cả sinh linh vạn vật. Ba Ngôi là một lò lửa tình yêu. Lò lửa tinh luyện tình yêu càng ngày càng phong phú, là nguồn mạch của mọi tình yêu trên đời.

Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi như thế không xa vời. Trái lại rất gần gũi, thiết thân với đời sống chúng ta, là nguồn mạch sự sống của ta, là khuôn mẫu ta phải noi theo, là cùng đích ta phải đạt tới.

Ta ra đời là do tình yêu của Thiên Chúa. Có thể nói nhân loại là kết tinh của tình yêu Thiên Chúa. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã nói: “Ta hãy tạo dựng con người giống hình ảnh Ta”. Thiên Chúa là tình yêu. Con người giống Thiên Chúa vì có trái tim biết yêu thương. Cây cỏ không có trái tim biết yêu thương. Cầm thú không có khả năng yêu thương. Chỉ có con người mới có khả năng yêu thương vì con người giống Thiên Chúa.

Nhưng tình yêu ở nơi con người chưa hoàn hảo vì còn chen lẫn nhiều ích kỷ, hận thù, ghen ghét. Vì thế con người còn phải thanh luyện cho tình yêu ngày càng thêm tinh tuyền, thêm quảng đại, thêm phong phú. Càng yêu thương con người càng nên giống Thiên Chúa. Càng quảng đại con người càng gần với trái tim Thiên Chúa. Càng quên mình con người càng tham dự vào sự sống Thiên Chúa.

Được sinh ra trong tình yêu nên con người phải sống bằng tình yêu. Như thế con người mới sống trọn định mệnh đời mình. Như thế con người mới đạt được cùng đích đời mình là sống hạnh phúc trong tình yêu muôn đời của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, là nguồn mạch tình yêu, là sự sống sung mãn, là thiên đàng hạnh phúc, con đã được sinh ra trong tình yêu của Chúa. Xin cho con biết sống tình yêu hy sinh theo gương Chúa Giêsu Kitô, để con được kết hợp với Chúa, sống chan hoà hạnh phúc trong tình yêu muôn đời của Chúa.

GỢI Ý CHIA SẺ

1. Thiên Chúa là tình yêu. Bạn cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa thế nào?
2. Bạn có là hình ảnh tình yêu của Thiên Chúa chưa?
3. Bạn làm gì để sống mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi?

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt